15. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội

24/05/2017 14:29

Bộ Lao Động, Thương binh và Xã hội trả lời 206 kiến nghị cử tri tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV tại Công văn số 251/LĐTBXH-VP, ngày 23/01/2017 như sau.

1. Cử tri các tỉnh Đồng Tháp, Hải Phòng, An Giang kiến nghị: Luật Giáo dục nghề nghiệp có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2015, nhưng hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn giao cho Bộ nào quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp. Đề nghị Chính phủ sớm có Nghị định hướng dẫn vấn đề này

Trả lời:

Ngày 03/9/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 76/NQ-CP, theo đó thống nhất giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) là cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp. Ngay sau khi được giao nhiệm vụ, Bộ LĐTBXH đã chủ động, tích cực phối hợp với các Bộ ngành, cơ quan, tổ chức liên quan xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 48/2015/NĐ-CP ngày 15/5/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật giáo dục nghề nghiệp, lấy ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp và hoàn thiện trình Chính phủ trong tháng 01/2017.

2. Cử tri tỉnh Đồng Nai, Đắc Lắk kiến nghị: Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành liên quan sớm hoàn thành quy hoạch mạng lưới các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề và trung tâm dạy nghề trong cả nước. Đồng thời, sớm ban hành và hướng dẫn các địa phương xây dựng đề án đặt hàng, tạo sự kết nối giữa trường dạy nghề với tổ chức, doanh nghiệp sử dụng lao động, nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho lao động, nhất là lao động nông thôn.

Trả lời:

   a) Về quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp

   Triển khai thực hiện Luật Giáo dục nghề nghiệp và Nghị quyết số 76/NQ-CP, Bộ LĐTBXH đã có văn bản hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương rà soát, sắp xếp cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc phạm vi quản lý (Công văn số 4823/LĐTBXH-TCDN ngày 30/11/2016). Trên cơ sở báo cáo của Bộ, ngành, địa phương, Bộ LĐTBXH sẽ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tập trung triển khai xây dựng quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghiệp và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành trong năm 2017.

   b) Về đề án đặt hàng đào tạo nghề

Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ LĐTBXH đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan xây dựng Đề án “Hoàn thiện cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ tổ chức đào tạo đối với các cơ sở dạy nghề cung ứng một số ngành nghề trọng điểm, nghề đáp ứng nhu cầu cho các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước; nghề nặng nhọc độc hại, khó tuyển sinh mà nhu cầu sản xuất đang cần tuyển dụng; nghề mà thị trường lao động đang thiếu nhưng do chi phí đào tạo cao nên các trường dạy nghề không muốn đào tạo. Ưu tiên đối tượng là người có công với cách mạng, dân tộc thiểu số, người khuyết tật, hộ nghèo; người bị thu hồi đất canh tác”.

   Tuy nhiên, tại văn bản số 18815/BTC-HCSN ngày 17/12/2015 của Bộ Tài chính về tham gia ý kiến dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án trên, Bộ Tài chính có ý kiến như sau: Đối với các nội dung quy định về triển khai, tổ chức thực hiện cơ chế đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ hiện nay thực hiện theo quy định tại Luật đấu thầu năm 2013, các văn bản hướng dẫn Luật, Quyết định số 39/2008/QĐ-TTg ngày 14/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ về đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước và Thông tư số 105/2008/TT-BTC ngày 13/11/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều của Quyết định số 39/2008/QĐ-TTg. Do vậy, đề nghị Bộ LĐTBXH báo cáo Thủ tướng Chính phủ không cần thiết phải ban hành Quyết định quy định cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo một số ngành, nghề sử dụng ngân sách nhà nước và đề nghị Bộ LĐTBXH trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản để sớm triển khai Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Trên cơ sở đó, Bộ LĐTBXH đã trình và được Thủ tướng Chính phủ đồng ý không ban hành Quyết định phê duyệt Đề án trên.

Hiện nay, Bộ LĐTBXH đã trình Chính phủ xem xét, ban hành Nghị định quy định cơ chế tự chủ trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong đó có các quy định về cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo một số ngành, nghề sử dụng ngân sách nhà nước.

3. Cử tri tỉnh Bình Phước, Ninh Thuận kiến nghị: Cử tri kiến nghị, hiện nay có nhiều trường hợp sinh viên tốt nghiệp ra trường không xin được việc làm, phải làm những ngành nghề trái ngành đã được đào tạo hoặc thất nghiệp,… Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành hữu quan tăng cường tư vấn ngành nghề đào tạo phù hợp cho từng đối tượng, từng khu vực để các em có định hướng phù hợp trong việc chọn nghề học, góp phần nâng cao cơ hội làm việc sau khi ra trường; tăng cường tìm kiếm nguồn việc làm từ các công ty, doanh nghiệp… để hỗ trợ việc làm cho các sinh viên mới ra trường, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc dạy và học tại các trường đào tạo nghề tư nhân để nâng cao chất lượng của các ngành nghề đào tạo.

Trả lời:

a) Về việc tăng cường tư vấn ngành nghề đào tạo phù hợp cho từng đối tượng, từng khu vực để các em có định hướng phù hợp trong việc chọn nghề học, góp phần nâng cao cơ hội làm việc sau khi ra trường; tăng cường tìm kiếm nguồn việc làm từ các công ty, doanh nghiệp…

- Trong những năm qua, Bộ LĐTBXH đã tăng cường đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài) về học nghề: tổ chức thông tin, tuyên truyền rộng rãi chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về vị trí, vai trò của công tác đào tạo nghề. Đã phối hợp với các cơ quan báo chí, đài phát thanh, truyền hình để đưa tin, bài về hoạt động dạy nghề, như: tư vấn tuyển sinh học nghề trên VTV2; tuyên truyền về học nghề, lập nghiệp trên VTV2, VOV, VTV16…; đưa tin, bài viết, phim ảnh về hoạt động dạy nghề trên các báo, tạp chí và website; xuất bản một số sách quảng bá về dạy nghề; tổ chức “Ngày hội tuyển sinh học nghề và việc làm”, hàng năm xuất bản cuốn sách “Thông tin tuyển sinh các trường TCN, trường CĐN”; xây dựng chuyên mục tuyển sinh học nghề trên website của Tổng cục Dạy nghề (tcdn.gov.vn), trong đó mô tả nội dung công việc của từng nghề và cơ hội việc làm của người học nghề sau khi tốt nghiệp.

- Để hỗ trợ học sinh, sinh viên tìm việc làm sau tốt nghiệp, Bộ LĐTBXH đã thực hiện các giải pháp cụ thể:

+ Chỉ đạo các cơ sở dạy nghề thành lập bộ phận quan hệ doanh nghiệp để nắm bắt nhu cầu của doanh nghiệp và giới thiệu việc làm cho người lao động sau khi học nghề; tổ chức đào tạo nghề theo đặt hàng của doanh nghiệp; tổ chức ngày hội giới thiệu việc làm để ký kết hợp đồng tuyển dụng trực tiếp với học sinh, sinh viên tốt nghiệp.

+ Xây dựng cổng thông tin điện tử việc làm của Bộ LĐTBXH cung cấp thông tin về sàn giao dịch việc làm ở các địa phương trên toàn quốc. Thông tin về việc làm thường xuyên được cập nhật tại trang thông tin điện tử: http://vieclamvietnam.gov.vn, mục sàn giao dịch, việc tìm người, người tìm việc.

b) Về tăng cường thanh tra, kiểm tra việc dạy và học tại các trường đào tạo nghề tư nhân để nâng cao chất lượng của các ngành nghề đào tạo.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã thường xuyên quan tâm, chỉ đạo việc thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực dạy nghề để nâng cao chất lượng của công tác đào tạo nghề. Trong 04 năm (2013-2016), Bộ đã tiến hành thanh tra việc thực hiện pháp luật về dạy nghề đối với 70 cơ sở dạy nghề (52 lượt trường cao đẳng nghề, 05 trường trung cấp nghề, 13 trung tâm dạy nghề) và thanh tra việc thực hiện Hợp đồng đặt hàng dạy nghề cho lao động nông thôn tại 22 cơ sở dạy nghề và cơ sở đào tạo có tham gia dạy nghề. Qua thanh tra, kiểm tra, các cơ quan thanh tra đã phát hiện 1.295 thiếu sót, hạn chế của các cơ sở đào tạo nghề trong việc thực hiện pháp luật về dạy nghề. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng đã tiến hành 570 cuộc thanh tra về công tác dạy nghề trong 04 năm vừa qua.

Trong thời gian tiếp theo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ chỉ đạo thanh tra toàn ngành tăng cường thanh tra, kiểm tra việc dạy và học tại các trường đào tạo nghề để nâng cao chất lượng đào tạo, giúp học sinh tin tưởng, lựa chọn học nghề tại các cơ sở đào tạo nghề.

4. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị:  Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thống kê số lượng thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường; đồng thời có biện pháp hướng nghiệp, đào tạo nghề ngắn hạn phù hợp với năng lực, trình độ và nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp hoặc chính sách xuất khẩu lao động nhằm giảm bớt thất nghiệp cho đối tượng có trình độ học vấn cao này.

Trả lời:

a) Về thống kê số lượng thất nghiệp của sinh viên

Trong những năm qua, tình hình giải quyết việc làm của học sinh sinh viên (HSSV) học nghề sau khi tốt nghiệp ra trường đã đạt được kết quả khả quan (thực tế đối với những HSSV học các nghề kỹ thuật không thể nói khó khăn trong tìm kiếm việc làm), cụ thể: năm 2015 tỷ lệ HSSV tốt nghiệp trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề (CĐN, TCN) có việc làm sau khi tốt nghiệp đạt 70,2%, trong đó tỷ lệ sinh viên CĐN ra trường có việc làm đạt 68,3 %, trung cấp nghề đạt 71,5%. Tại 45 trường được lựa chọn ưu tiên đầu tư trọng điểm trở thành trường chất lượng cao vào năm 2020, tỷ lệ có việc làm sau khi tốt nghiệp của HSSV tốt nghiệp trình độ CĐN, TCN đạt 77%. Một số nghề có số lượng HSSV có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp chiếm tỷ lệ cao: Kỹ thuật khai thác mỏ hầm lò (98%), Hàn (91%), Điện công nghiệp (88%), Cắt gọt kim loại (87%), Công nghệ ô tô (83%), Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa không khí (81%)... Nhiều trường CĐN khi tổ chức Lễ tốt nghiệp cho học sinh, sinh viên ra trường, doanh nghiệp đã trực tiếp đến tiếp nhận ngay tại buổi Lễ. Nhìn chung, tỷ lệ thất nghiệp của HSSV học nghề sau khi tốt nghiệp thấp.

b) Về hướng nghiệp, đào tạo nghề ngắn hạn phù hợp với năng lực, trình độ và nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp

Bộ LĐTBXH đang thực hiện đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng nghiệp cho HSSV và người lao động, trong đó đặc biệt quan tâm tới việc triển khai dữ liệu thông tin về thị trường lao động, cung cầu lao động trên thị trường. Qua đó, HSSV, người lao động sẽ có thêm cơ hội tiếp cận với thông tin về việc làm, lựa chọn ngành nghề phù hợp theo từng địa phương, khu vực để theo học, lựa chọn hình thức học tập để bảo đảm có việc làm sau khi học xong.

5. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị:  Cử tri kiến nghị Chính phủ quan tâm có giải pháp nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho lao động Việt Nam để có thể tiếp thu công nghệ cao của các nước phát triển phục vụ sản xuất công nghiệp và nông nghiệp trong nước.

Cử tri đề nghị Chính phủ ban hành những chính sách, giải pháp cụ thể để nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trong thời gian tới; ưu tiên hoạt động đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực phục vụ nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trả lời:

a) Về việc ban hành các chính sách

Để đáp ứng nhu cầu ngày một cao hơn của thị trường lao động, nâng cao chất lượng đào tạo để có nguồn lao động chất lượng cao, Chính phủ đã ban hành các quyết định:

- Quyết định số 630/QĐ-TTg ngày 29 tháng 5 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 – 2020”.

- Quyết định số 371/QĐ-TTg ngày 28/2/2013 phê duyệt Đề án “Chuyển giao các bộ chương trình; đào tạo bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề; đào tạo thí điểm các nghề trọng điểm cấp độ khu vực ASEAN, quốc tế”. Hiện nay đang tổ chức đào tạo thí điểm theo 12 bộ chương trình đã được chuyển giao từ Úc tại 25 trường cao đẳng nghề.

- Quyết định số 761/QĐ-TTg ngày 23/5/2014 phê duyệt “Đề án phát triển trường nghề chất lượng cao đến năm 2020”; theo đó, đã lựa chọn 45 trường nghề để ưu tiên đầu tư tập trung, đồng bộ nhằm đạt được các tiêu chí của trường nghề chất lượng cao vào năm 2020.

Bộ LĐTBXH cũng đã ban hành Quyết định số 854/QĐ-LĐTBXH ngày 06/6/2013 và Quyết định số 960/QĐ-BLĐTBXH ngày 26/6/2013 về việc phê duyệt nghề trọng điểm cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế.

b) Về các giải pháp nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cũng như nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho lao động Việt Nam trong thời gian tới

 Bộ LĐTBXH đã đề ra các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề, góp phần nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho lao động Việt Nam, trong đó có những giải pháp chủ yếu sau:

- Tạo sự đột phá về chất lượng dạy nghề, tập trung đầu tư các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia, khu vực ASEAN và quốc tế để thu hút người học tham gia đào tạo nghề chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu lao động chất lượng cao cho vùng kinh tế động lực, khu công nghiệp, khu chế xuất và hội nhập quốc tế. Định hướng phát triển ngành, nghề phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp và thị trường lao động.

- Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đổi mới mạnh mẽ để nâng cao chất lượng đào tạo. Việc đổi mới tập trung vào đổi mới chương trình đào tạo trong đó tăng cường đào tạo cả kiến thức và kỹ năng nghề; kỹ năng mềm, an toàn lao động và tác phong công nghiệp. Đổi mới phương thức đào tạo và cách đánh giá người học. Đặc biệt là sự vào cuộc thực chất của doanh nghiệp từ xây dựng chương trình đào tạo, tham gia đào tạo, tổ chức thực hành cho học sinh, đánh giá kết quả đào tạo. Mặt khác, đẩy mạnh công tác đánh giá kỹ năng nghề theo các tiêu chuẩn khu vực; tập trung đào tạo nhân lực phục vụ hội nhập, Thủ tướng Chính phủ đã lựa chọn 45 trường nghề để đầu tư tập trung phát triển đến năm 2020 thành trường chất lượng cao; chuyển giao các bộ chương trình đào tạo nghề  cấp độ quốc tế;  hiện nay đang tích cực triển khai đào tạo thí điểm 12 nghề đã chuyển giao từ Úc tại 25 trường chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế; sinh viên ra trường sẽ được cấp bằng nghề của Úc cho gần 1000 HSSV.

6. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Về sửa đổi, bổ sung Thông tư 25/2015/TT-BLĐTBXH ngày 13/7/2015 quy định về đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp, cấp, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp và đình chỉ hoạt động giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp; Đề nghị Chính phủ quan tâm chỉ đạo phát triển thị trường lao động, giải quyết việc làm, nhất là thanh niên đến tuổi lao động, những lao động đã qua đào tạo.

Trả lời:

Ngày 14/10/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 143/2016/NĐ-CP quy định điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp (có hiệu lực thi hành từ ngày 14/10/2016). Theo quy định tại điểm c, khoản 2 Điều 25 của Nghị định thì Thông tư 25/2015/TT-BLĐTBXH ngày 13/7/2015 quy định về đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp, cấp, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp và đình chỉ hoạt động giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp đã hết hiệu lực thi hành. Kể từ ngày 14/10/2016 việc đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp thực hiện theo quy định tại Nghị định số 143/2016/NĐ-CP.

7. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị:  Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 39/2015/TTLT-BLĐTBXH-BGDĐT-BNV ngày 19/10/2015 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ hướng dẫn việc sáp nhập Trung tâm dạy nghề, Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp công lập cấp huyện thành Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên, tỉnh Tây Ninh đã lập đề án chuyển các trung tâm giáo dục thường xuyên về huyện, tuy nhiên nếu thực hiện theo đúng hướng dẫn thì các huyện gặp khó khăn trong công tác quản lý vì hiện nay, các trung tâm này chủ yếu thực hiện chức năng giáo dục, nhất là các em học sinh không trúng tuyển lớp 10 vào các trường công lập sẽ học tại các trung tâm này.

Trả lời:

Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 39/2015/TTLT-BLĐTBXH-BGDĐT-BNV ngày 19/10/2015, Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên là đơn vị sự nghiệp công lập cấp huyện, thực hiện cả 3 chức năng đào tạo nghề nghiệp ở trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng; giáo dục thường xuyên và hướng nghiệp; chịu sự quản lý trực tiếp của Ủy ban nhân dân cấp huyện và chịu sự chỉ đạo chuyên môn của Sở LĐTBXH và Sở Giáo dục và Đào tạo. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giao bổ sung thêm các chức năng còn thiếu cho Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên sau khi được sáp nhập.

Hoạt động của Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên thực hiện theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp và Điều lệ Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp do Bộ trưởng Bộ LĐTBXH ban hành; Quy chế tổ chức và hoạt động của trung tâm giáo dục thường xuyên và Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm kỹ thuật tổng hợp do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

Do đó, việc các em học sinh không trúng tuyển lớp 10 vào các trường công lập học tại các trung tâm này để học chương trình giáo dục thường xuyên hoặc chương trình khác sẽ không ảnh hưởng đến cơ hội tiếp cận học nghề, giáo dục thường xuyên và hướng nghiệp của học sinh cũng như công tác quản lý Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên.

8. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị:  Tại Điều 4 (Điều kiện cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp): Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 39/2015/TTLT-BLĐTBXH-BGDĐT-BNV ngày 19/10/2015 của Bộ LĐTBXH, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ hướng dẫn việc sáp nhập Trung tâm dạy nghề, Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp công lập cấp huyện thành Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên; Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên, thì các trung tâm này thực hiện thêm chức năng giáo dục nghề nghiệp, do vậy phần lớn các trung tâm vận dụng giáo viên dạy giáo dục thường xuyên như giáo viên Vật lý, giáo viên Tin học để làm giáo viên cơ hữu cho nghề Điện dân dụng và Tin học văn phòng… do đội ngũ giáo viên cơ hữu dạy nghề là rất ít. Mặt khác, thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, trên cơ sở tổ chức sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập nên các Trung tâm giáo dục nghề nghiệp công lập không thể tuyển dụng thêm giáo viên cơ hữu để tham gia giảng dạy. Vì vậy, đề nghị Bộ LĐTBXH xem xét, điều chỉnh thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp theo hướng: Các Trung tâm giáo dục nghề nghiệp sẽ được mời giáo viên thỉnh giảng (thay cho giáo viên cơ hữu) tham gia giảng dạy. Đồng thời, Sở LĐTBXH quản lý chặt chẽ và hướng dẫn các Trung tâm giáo dục nghề nghiệp phải đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn hoạt động đúng quy định.

Trả lời:

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 14 Nghị định số 143/2016/NĐ-CP ngày 14/10/2016 của Chính phủ quy định điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp (có hiệu lực thi hành từ ngày 14/10/2016), Trung tâm giáo dục nghề nghiệp được mời giáo viên thỉnh giảng đủ điều kiện để tham gia giảng dạy các nghề có đăng ký hoạt động dạy nghề, tuy nhiên, nghề đăng ký hoạt động phải đảm bảo có giáo viên cơ hữu tham gia giảng dạy.

9. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi  kiến nghị: Tại Điều 6 (Thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp) quy định “Tổng Cục trưởng Tổng cục Dạy nghề, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp đối với trường cao đẳng”. Đây là một bất cập của các trường cao đẳng đóng trên địa bàn tỉnh. Bởi vì, đối với trình độ đào tạo sơ cấp và đào tạo thường xuyên thì các ngành nghề này là đào tạo theo đặc thù của từng vùng, từng ngành, từng địa phương. Do đó, Sở LĐTBXH các tỉnh sẽ xác định được những danh mục nghề đào tạo, nhu cầu học nghề, nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo nghề của doanh nghiệp, các ngành kinh tế và thị trường lao động để đào tạo cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh. Đề nghị Bộ LĐTBXH điều chỉnh Điều 6, như sau: Giám đốc sở LĐTBXH các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp đối với các trường cao đẳng, trung cấp, trung tâm giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp. Như vậy, sẽ thuận lợi hơn trong việc xây dựng danh mục nghề đào tạo, kế hoạch đào tạo nghề trên cơ sở các ngành nghề của địa phương và rà soát được các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn có năng lực đào tạo.

Trả lời:

Tại Điều 4, Điều 6 Nghị định số 48/2015/NĐ-CP ngày 15/5/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục nghề nghiệp đã quy định rõ việc đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp thực hiện theo cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học, doanh nghiệp. Không thực hiện đăng  ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp theo từng trình độ đào tạo của các cơ sở.

   Điều 16 Nghị định số 143/2016/NĐ-CP ngày 14/10/2016 của Chính phủ quy định điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp đã quy định rõ: Tổng cục Dạy nghề cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp đối với trường cao đẳng, cơ sở giáo dục đại học. Sở LĐTBXH cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp đối với trường trung cấp, trung tâm giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp.

   Việc phân cấp như vậy bảo đảm giảm thủ tục, tiết kiệm thời gian thực hiện thủ tục hành chính theo nguyên tắc một việc giao cho một cơ quan thực hiện, tránh gây phiền hà cho các trường. Việc cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp đối với trường cao đẳng do Tổng cục Dạy nghề, Bộ LĐTBXH thực hiện; việc cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp đối với trường trung cấp, trung tâm giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp do Sở LĐTBXH thực hiện.

10. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Đề nghị Bộ LĐTBXH phối hợp với Bộ, ngành có liên quan sớm ban hành Thông tư hướng dẫn Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 (hướng dẫn thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an...).

Trả lời:

Bộ LĐTBXH đã ban hành Thông tư số 43/2016/TT-LĐTBXH ngày 28/12/2016 về việc hướng dẫn thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho các đối tượng quy định tại Điều 14 Nghị định số 61/2015/NĐ-CP về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và quỹ quốc gia về việc làm.

11. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Đề nghị Chính phủ cần ban hành "Danh mục ngành nghề bắt buộc người lao động phải qua đào tạo mới được hành nghề.

Trả lời:

Bộ LĐTBXH đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2015/NĐ-CP ngày 24/3/2015 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia, trong đó quy định danh mục công việc ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn sức khỏe của cá nhân người lao động hoặc cộng đồng phải qua đào tạo và phải có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia thì mới được hành nghề.

12. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị:  Đề nghị Chính phủ có cơ chế, chính sách đủ mạnh để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho lao động sau đào tạo như: Chính sách giảm thuế thu nhập doanh nghiệp tính trên số lượng lao động được doanh nghiệp đào tạo cấp chứng chỉ nghề và được ký kết hợp đồng lao động tuyển vào làm việc tại doanh nghiệp.

Trả lời:

Điều 51, Luật Giáo dục nghề nghiệp đã qui định rõ Quyền của doanh nghiệp trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp, cụ thể: “Các khoản chi cho hoạt động đào tạo nghề nghiệp của doanh nghiệp được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật về thuế”.

Trả lời:

Hiện nay Bộ LĐTBXH đang nghiên cứu, hoàn thiện, trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 48/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục nghề nghiệp, trong đó có sửa đổi, bổ sung một số quy định về những nội dung chi của doanh nghiệp khi tham gia các hoạt động giáo dục nghề nghiệp được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật.

13. Cử tri tỉnh Thừa Thiên Huế kiến nghị: Đề nghị nâng cấp Trường trung cấp Văn hóa Nghệ thuật thành Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật Thừa Thiên Huế

Trả lời:

Căn cứ Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 03/9/2016 phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8/2016 về việc phân công cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp; Nghị định số 143/2016/NĐ-CP ngày 14/10/2016 về việc quy định điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp và Biên bản bàn giao, tiếp nhận chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp đối với các trường cao đẳng, trường trung cấp chuyên nghiệp (trừ các trường sư phạm) từ Bộ Giáo dục và Đào tạo sang Bộ LĐTBXH, Bộ LĐTBXH sẽ chỉ đạo Tổng cục Dạy nghề hướng dẫn địa phương, Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Thừa Thiên Huế và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp nói chung thực hiện theo quy định hiện hành.

14. Cử tri các tỉnh Cử tri các tỉnh, thành phố: An Giang, Đồng Nai, Phú Yên, Đắk Lắk, Long An, Hưng Yên, Ninh Thuận, Phú Thọ, Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Ngãi, Lâm Đồng, Bình Phước, Ninh Thuận, Quảng Bình, Gia Lai, Hà Nội, Thừa Thiên kiến nghị:  Nhóm các kiến nghị đề nghị giải quyết việc làm cho thanh niên, sinh viên đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp...

Trả lời:

Để giải quyết việc làm cho thanh niên nói chung, thanh niên là người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự nói riêng cần có sự tham gia của các Bộ, ngành, địa phương và toàn xã hội, trong đó việc đẩy mạnh phát triển kinh tế của cả nước và từng địa phương để tạo nhiều việc làm và thu hút thanh niên tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học về địa phương làm việc có ý nghĩa quan trọng.

Tiếp thu ý kiến của cử tri, nhằm đẩy mạnh giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là thanh niên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã và đang tập trung thực hiện các giải pháp sau:

- Xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án hỗ trợ thanh niên lập nghiệp, khởi sự doanh nghiệp giai đoạn 2017 - 2021 (đang hoàn thiện Đề án trình Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở ý kiến góp ý của các Bộ, ngành, địa phương);

- Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu Giáo dục nghề nghiệp - Việc làm và An toàn, vệ sinh lao động giai đoạn 2016 - 2020 với các dự án đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp và dự án hỗ trợ phát triển thị trường lao động và việc làm;

- Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu xã hội, gắn đào tạo nghề với việc làm. Xã hội hóa công tác giáo dục nghề nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề cho người lao động;

- Phối hợp với Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và các cơ quan liên quan thống kê số lượng thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường làm cơ sở xây dựng các chính sách phù hợp;

- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai thực hiện công tác phân luồng học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp tham gia vào thị trường lao động;

- Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động; đẩy mạnh dự báo thị trường lao động trong ngắn hạn và dài hạn... giúp thanh niên, sinh viên lựa chọn và quyết định học nghề, lập nghiệp, tham gia thị trường lao động;

- Nâng cao năng lực của hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm trong tư vấn, giới thiệu việc làm và định hướng nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên; tăng cường tần suất phiên giao dịch việc làm; chỉ đạo các Trung tâm dịch vụ việc làm phối hợp với các cơ sở đào tạo để tư vấn, giới thiệu việc làm và định hướng nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên.

15. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị:  Đề nghị nhà nước cần tạo thêm nhiều cơ chế giải quyết hỗ trợ việc làm cho đối tượng thanh niên đặc thù, thanh niên chậm tiến, thanh niên yếu thế giúp họ ổn định cuộc sống.

Trả lời:

Nhằm đẩy mạnh đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù, trên cơ sở Nghị định số 80/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16 tháng 9 năm 2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 44/2016/TT-BLĐTBXH ngày 28 tháng 12 năm 2016 về Hướng dẫn chính sách đào tạo nghề nghiệp, tạo việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù trong đó tập trung hướng dẫn các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp; tư vấn, giới thiệu việc làm; vay vốn đào tạo nghề nghiệp và tạo việc làm; hỗ trợ đưa người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nhằm hỗ trợ người chấp hành xong án phạt tù, trong đó có nhiều đối tượng thanh niên sớm có việc làm ổn định, nhanh chóng hòa nhập cộng đồng.

Trong thời gian tới Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với các Bộ, ngành nghiên cứu, đề xuất các chính sách hữu hiệu hơn cho các đối tượng này giúp họ sớm tìm được việc làm và ổn định cuộc sống.

16. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Cử tri đề nghị Chính phủ hoàn thiện, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý, phát triển nhân lực. Cần hình thành một cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, xây dựng hệ thống thông tin về cung - cầu nhân lực quốc gia nhằm bảo đảm cân đối cung - cầu nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các chủ thể tham gia hoạt động quản lý và phát triển nguồn nhân lực.

Trả lời:

Với chức năng nhiệm vụ được Chính phủ giao, thời gian qua Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tham mưu, trình Chính phủ triển khai và thực hiện một số các giải pháp để phát triển nguồn nhân lực như trình các cấp ban hành Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Trẻ em, Luật Việc làm,…; tổ chức thực hiện chương trình Mục tiêu quốc gia về việc làm, dạy nghề; đào tạo nghề cho lao động nông thôn,… Bên cạnh đó, Bộ đã ban hành Thông tư số 27/2015/TT-BLĐTBXH ngày 24/7/2015 hướng dẫn thu thập, lưu trữ, tổng hợp thông tin thị trường lao động (trước đây là Thông tư số 25/2009/TT-BLĐTBXH ngày 14/7/2009 hướng dẫn thu thập và xử lý thông tin cung, cầu lao động) để hướng dẫn các tỉnh/thành phố xây dựng cơ sở dữ liệu cung, cầu lao động tại địa phương. Đến nay, hoạt động thu thập, cập nhật cơ sở dữ liệu thị trường lao động là hoạt động thường xuyên của các tỉnh/thành phố, là nguồn dữ liệu quan trọng phục vụ cho công tác quản lý, dự báo và xây dựng các chính sách về lao động – việc làm.

17. Cử tri tỉnh Bình Phước, Quảng Ngãi kiến nghị:  Nhóm kiến nghị liên quan đến phân bổ nguồn kinh phí Quỹ Quốc gia về việc làm.

Trả lời:

Từ năm 2013 đến nay, do tình hình kinh tế chung của cả nước gặp khó khăn, mỗi năm ngân sách Trung ương chỉ cấp bổ sung cho Quỹ quốc gia về việc làm 50 tỷ đồng. Do nguồn bổ sung hạn chế nên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ưu tiên phân bổ kinh phí cho các tỉnh còn gặp nhiều khó khăn.

Tiếp thu ý kiến của cử tri, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét bổ sung nguồn vốn cho Quỹ quốc gia về việc làm làm cơ sở phân bổ, tăng nguồn vốn bổ sung vay cho Quỹ. Đồng thời phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất cơ chế cấp bù chênh lệch lãi suất cho Ngân hàng Chính sách xã hội để tăng nguồn huy động cho Quỹ, góp phần hỗ trợ tạo việc làm nhiều hơn nữa cho lao động, đặc biệt là lao động yếu thế.

18. Cử tri tỉnh Bình Phước kiến nghị: Thời gian qua các công ty, doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư tại Việt Nam nhiều, trong đó có một số công ty Trung Quốc không thuê nhân công người Việt mà chỉ tuyển lao động Trung Quốc. Bên cạnh đó, các công ty này hoạt động khép kín, ít giao lưu với bên ngoài nên tạo tâm lý bất an cho nhân dân. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo ngành chức năng thẩm tra, xem xét một cách toàn diện về kinh tế - xã hội khi cấp phép hoạt động cho các công ty, doanh nghiệp nước ngoài. Đồng thời có chế độ kiểm tra, giám sát định kỳ hoạt động của công ty này để đảm bảo hoạt động của các công ty được thực hiện đúng các quy định của pháp luật Việt Nam và giúp nhân dân yên tâm.

Trả lời:

Thực hiện quản lý nhà nước về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã từng bước hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, đồng thời chủ động nắm bắt tình hình và có những chỉ đạo, đôn đốc, nhắc nhở kịp thời các địa phương chưa thực hiện tốt các quy định của pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và tập trung vào các giải pháp sau:

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn và phổ biến các quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam với nhiều hình thức phù hợp, thiết thực và có sự phối hợp gồm các Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội; ngoại giao; kế hoạch và đầu tư; tư pháp; xuất cảnh, nhập cảnh và cư trú ở các cấp;

- Rà soát, đánh giá và hoàn thiện quy chế phối hợp theo quy định của pháp luật và tình hình thực tế tại địa phương, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc chia sẻ thông tin, quản lý lao động, phát hiện và xử lý kịp thời những vi phạm;

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp cố tình vi phạm pháp luật Việt Nam liên quan đến người lao động nước ngoài;

- Tổ chức thẩm định chặt chẽ nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài vào từng vị trí công việc phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương, đảm bảo việc thực hiện quản lý lao động nước ngoài ngay từ khi bắt đầu làm việc; chỉ cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài vào làm việc tại các vị trí công việc mà không tuyển được người lao động Việt Nam, đối với những công việc mà lao động Việt Nam đảm nhận được thì kiên quyết không sử dụng lao động nước ngoài;

- Chủ động xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng cho nhu cầu nhân lực của địa phương, tăng cường công tác đào tạo, huấn luyện kỹ năng, ý thức thái độ và tác phong làm việc của người lao động Việt Nam tạo nguồn giới thiệu, cung ứng lao động cho các doanh nghiệp, nhà thầu nước ngoài trên địa bàn.

19. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị:  Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nghiên cứu, xây dựng trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 7 và Điều 9 Nghị định số 52/2014/NĐ-CP ngày 23/5/2014 quy định điều kiện, thủ tục cấp giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm, bao gồm: Sơ yếu lý lịch có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền, văn bằng chứng minh trình độ chuyên môn, hợp đồng lao động và quyết định bổ nhiệm; đồng thời, phối hợp với các đơn vị liên quan bổ sung mẫu đơn xin cấp giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm và mẫu xác nhận ký quỹ hoạt động dịch vụ việc làm của các Ngân hàng Thương mại.

Trả lời:

- Về việc bổ sung “Sơ yếu lý lịch có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền, văn bằng chứng minh trình độ chuyên môn, hợp đồng lao động và quyết định bổ nhiệm”, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho rằng quy định về điều kiện bộ máy chuyên trách để thực hiện các họat động dịch vụ việc làm nêu tại Điều 9 Nghị định số 52/2014/NĐ-CP: “Bộ máy chuyên trách để thực hiện các hoạt động dịch vụ việc làm bao gồm ít nhất 03 nhân viên có trình độ cao đẳng trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, lý lịch rõ ràng” là phù hợp. Việc không quy định các giấy tờ, chứng minh điều kiện bộ máy chuyên trách để thực hiện các hoạt động dịch vụ việc làm trong khi làm thủ tục xin cấp giấy phép là để giảm bớt, đơn giản hóa thủ tục hành chính và nâng cao quyền tự chủ về nhân sự của doanh nghiệp. Mặt khác, các giấy tờ chứng minh về người đại diện doanh nghiệp đã được quy định cụ thể trong luật doanh nghiệp. Cơ quan quản lý nhà nước thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra để biết được về điều kiện hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến của đại biểu, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định số 52/2014/NĐ-CP ngày 23/5/2014 trong thời gian tới để thuận lợi hơn cho việc quản lý, cấp phép cho doanh nghiệp hoạt động dịch việc làm.

- Về việc bổ sung mẫu đơn xin cấp giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm là không cần thiết, làm tăng thêm thủ tục hành chính trong việc xin cấp giấy phép dịch vụ việc làm và không tạo sự linh hoạt cho doanh nghiệp trong việc đăng ký hoạt động dịch vụ việc làm.

- Việc bổ sung xác nhận ký quỹ hoạt động dịch vụ việc làm: Đây là nghiệp vụ của Ngân hàng. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có công văn số 8464/NHNN-TT ngày 04/11/2016 để hướng dẫn các Ngân hàng Thương mại về việc thực hiện ký quỹ đối với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm. Do vậy, sau khi doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm hoàn tất thủ tục ký quỹ thì các Ngân hàng Thương mại sẽ cấp giấy chứng nhận tiền ký quỹ.

20. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Đề nghị chính phủ quan tâm chỉ đạo phát triển thị trường lao động, giải quyết việc làm, nhất là thanh niên đến tuổi lao động, những lao động đã qua đào tạo

Trả lời:

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp thu ý kiến của đại biểu để có chỉ đạo nhằm phát triển thị trường lao động, giải quyết việc làm, nhất là thanh niên đến tuổi lao động, những lao động đã qua đào tạo. Trước nhất, Bộ sẽ chỉ đạo tập trung vào các hoạt động sau:

- Nghiên cứu, đề xuất xây dựng và thực hiện các chính sách việc làm, phát triển thị trường lao động như: đề án về thị trường lao động; xã hội hóa cung cấp dịch vụ việc làm; đề án hỗ trợ thanh niên lập nghiệp, khởi sự doanh nghiệp 2016 - 2020; chính sách việc làm công.

- Tổ chức tốt việc thực hiện Chương trình mục tiêu Giáo dục nghề nghiệp, việc làm và an toàn lao động.

- Thực hiện Chiến lược dạy nghề giai đoạn 2011-2020, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, gắn đào tạo nghề với việc làm; gắn kết các cơ sở đào tạo với doanh nghiệp; thực hiện giảng dạy, truyền nghề trực tiếp tại doanh nghiệp, làng nghề; tăng cường rèn luyện, nâng cao hiểu biết về pháp luật, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp cho người lao động.

- Vận hành hệ thống thông tin thị trường lao động một cách hiệu quả; nâng cao chất lượng công tác dự báo và thông tin thị trường lao động; đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm của hệ thống Trung tâm Dịch vụ việc làm; tăng tần suất, nâng cao hiệu quả tổ chức sàn giao dịch việc làm tại địa phương; kết nối hệ thống thông tin thị trường lao động địa phương với hệ thống thông tin thị trường lao động quốc gia.

- Thông tin, tuyên truyền các chế độ, chính sách về thị trường lao động, hỗ trợ tạo việc làm, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định mới của Luật Việc làm trên các phương tiện thông tin đại chúng;

- Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ sự hỗ trợ về kinh nghiệm và tài chính để thực hiện tốt chính sách hỗ trợ tạo việc làm, bảo hiểm thất nghiệp, dịch vụ việc làm, thông tin việc làm.

21. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đa số các doanh nghiệp công nghiệp đều ưu tiên tuyển dụng, sử dụng lao động trẻ, nhiều lao động lớn tuổi (trên 45 tuổi, nhất là lao động nữ) bị các doanh nghiệp tìm nhiều lý do để sa thải. Do vậy, đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức nghiên cứu, đánh giá thực trạng này và có chính sách giải quyết hợp lý, kịp thời, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động, tránh các hệ lụy xã hội phát sinh.

Trả lời:

Trong thời gian qua, do thay đổi công nghệ sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ cao vào sản xuất, có xảy ra hiện tượng doanh nghiệp sa thải nhiều lao động lớn tuổi (trên 45 tuổi), lao động nữ để tuyển lao động trẻ, có trình độ chuyên môn kỹ thuật và tiếp cận nhanh hơn với công nghệ, hiện đại hóa. Bên cạnh đó cũng có doanh nghiệp sa thải lao động lớn tuổi, chỉ tuyển lao động mới ra nhập thị trường lao động để tiết kiệm chi phí tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội.

Để giải quyết vấn đề trên, năm 2017, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan để tổ chức nghiên cứu, khảo sát đánh giá cụ thể thực trạng này để từ đó tham mưu cho Chính phủ đưa ra những chính sách giải quyết hợp lý, kịp thời nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động trong thời gian tới.

22. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Đề nghị Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với các bộ, ngành liên quan thống nhất phương pháp tính toán các chỉ tiêu về việc làm, chỉ tiêu lao động được tạo việc làm nhằm phục vụ thiết thực cho việc đánh giá, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo tính chính xác, cụ thể, khả thi.

Trả lời:

Giai đoạn 2011 - 2015, hằng năm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, báo cáo chỉ tiêu số lao động được tạo việc làm trên cơ sở kết quả điều tra lao động việc làm của Tổng cục Thống kê, cơ sở dữ liệu cung và tổng hợp báo cáo của các địa phương và các cơ quan liên quan. Tuy nhiên, qua quá trình theo dõi và quản lý chỉ tiêu số lao động được tạo việc làm cho thấy việc thống kê, tính toán chỉ tiêu này theo các phương pháp trên gặp nhiều bất cập như: khó tính, tính chính xác không cao, dễ bị tính trùng trong điều kiện hệ thống dữ liệu, thống kê của Việt Nam hiện nay chưa đầy đủ, đồng bộ. Do đó, giai đoạn 2016 - 2020 trong Nghị quyết số 142/2016/NQ-QH13 ngày 12/04/2016 về tình hình kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2016 - 2020 và Nghị quyết số 95/2015/NQ-QH13 ngày 10/11/2015 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016 của Quốc hội sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ thất nghiệp, không sử dụng chỉ tiêu giải quyết việc làm.

Theo Nghị định số 03/2014/NĐ-CP ngày 16/01/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật lao động về việc làm quy định “Ủy ban nhân dân các cấp phải xây dựng và tổ chức thực hiện chỉ tiêu tạo việc làm tăng thêm trong các chương trình, dự án và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm, hằng năm”, chỉ tiêu này được xác định theo quy định tại Thông tư số 23/2014/TT-BLĐTBXH ngày 29/8/2014 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 03/2014/NĐ-CP.

Bên cạnh đó, ngày 01/7/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 97/2016/NĐ-CP về quy định hệ thống chỉ tiêu thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, trong đó các chỉ tiêu về lao động, việc làm bao gồm: chỉ tiêu lực lượng lao động; số lao động có việc làm trong nền kinh tế; tỷ lệ lao động qua đào tạo; tỷ lệ thất nghiệp; tỷ lệ thiếu việc làm; năng suất lao động xã hội; thu nhập bình quân của một lao động đang làm việc.

Trên cơ sở hệ thống các chỉ tiêu trong Nghị quyết của Quốc hội, quy định của pháp luật và tình hình thực tế tại địa phương, các địa phương có thể xem xét, quyết định việc sử dụng các chỉ tiêu phù hợp phục vụ xây dựng và hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

23. Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị:  Đề nghị Chính phủ xây dựng chiến lược truyền thông quốc gia về định hướng nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu của xã hội và việc làm cho thanh niên nông thôn; thành lập “Quỹ khởi nghiệp” giúp thanh niên khó khăn vươn lên lập nghiệp, góp phần giải quyết việc làm cho lao động

Trả lời:

Giai đoạn 2011 - 2015, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về dạy nghề, việc làm, xuất khẩu lao động; định hướng nghề nghiệp, tư vấn, giới thiệu việc làm, dạy nghề gắn với giải quyết việc làm cho người lao động, tập trung chủ yếu cho thanh niên nông thôn thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia Việc làm và Dạy nghề giai đoạn 2012 - 2015.

Tiếp thu ý kiến của cử tri, giai đoạn tới, Bộ sẽ tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động về thông tin, tuyên truyền về định hướng nghề nghiệp cho thanh niên  thông qua Chương trình mục tiêu Giáo dục nghề nghiệp - Việc làm và An toàn, vệ sinh lao động giai đoạn 2016 - 2020, Quỹ quốc gia về việc làm, Đề án hỗ trợ thanh niên lập nghiệp, khởi sự doanh nghiệp…

Đối với đề xuất thành lập Quỹ khởi nghiệp, Bộ sẽ chủ động phối hợp với các Bộ, ngành được giao chủ trì để nghiên cứu, đề xuất báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

24. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Liên quan đến chính sách xuất khẩu lao động nhằm giảm bớt thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường.

Trả lời:

Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang xây dựng đề án đưa lao động trình độ chuyên môn kỹ thuật cao đi làm việc ở nước ngoài, theo đó sẽ triển khai các nhóm giải pháp:

- Xác định cụ thể các ngành nghề thí điểm và nhu cầu của những ngành nghề đó đối với từng quốc gia dự kiến đưa lao động sang làm việc (Nhật Bản: điều dưỡng, kỹ sư công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, công nghệ vật lý, sinh học; CHLB Đức: điều dưỡng chăm sóc người già, người bệnh; kỹ sư công nghệ thông tin và cơ khí; Hàn Quốc: cơ khí, hàn, công nghệ thông tin, điện tử...).

- Thực hiện các giải pháp về cung lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật trong nước như thống kê số liệu chính thức về số lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật phân theo ngành nghề, lĩnh vực đào tạo; xác định các chương trình đào tạo chưa phù hợp với yêu cầu của các quốc gia tiếp nhận, để tiếp nhận những chương trình đào tạo phù hợp đưa vào đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng và trung cấp của Việt Nam, bảo đảm học viên tốt nghiệp các trường theo giáo trình này đạt chuẩn do phía nước ngoài yêu cầu; lựa chọn một số trường có các chuyên ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu của nước tiếp nhận để đưa các ngoại ngữ phù hợp với từng thị trường vào đào tạo song song ngay năm đầu.

- Thực hiện tuyên truyền, định hướng cho người lao động chủ động nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn để tham gia thị trường lao động quốc tế; thông tin các điều kiện, tiêu chuẩn cụ thể về trình độ (tay nghề, ngoại ngữ) mà các nước tiếp nhận yêu cầu.

- Xây dựng chính sách đối với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật đi làm việc ở nước ngoài: khuyến khích những doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật đi làm việc ở nước ngoài thông qua việc thực hiện chính sách ưu đãi về thuế doanh nghiệp, căn cứ vào số lượng thực tế người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật được doanh nghiệp đưa đi hàng năm để tính toán mức miễn, giảm thuế.

25. Cử tri tỉnh Đồng Tháp  kiến nghị:  Kiến nghị Nhà nước xem xét giảm chi phí cho người đi lao động ở nước ngoài vì mức phí hiện nay quá cao so với điều kiện kinh tế của nhiều hộ dân ở nông thôn.

Trả lời:

 Để giảm chi phí cho người lao động khi đi làm việc ở nước ngoài, Bộ Lao động đã thực hiện lộ trình giảm chi phí:

Thời gian qua, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã thực hiện các biện pháp tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các quy định của pháp luật và các quy định liên quan đến từng thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam để chấn chỉnh thị trường giảm chi phí cho người lao động. Cụ thể: Bộ đã tăng cường trao đổi với các cơ quan quản lý lao động của nước sở tại, đàm phán để giảm chi phí môi giới đối với các hợp đồng cung ứng lao động; chỉ đạo các doanh nghiệp tăng cường đàm phán với chủ sử dụng và môi giới đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp đối với người lao động, giảm thiểu chi phí xuất cảnh cho người lao động. Bên cạnh đó Bộ chỉ đạo các địa phương làm tốt công tác tuyên truyền thông tin về thị trường, hợp đồng nhằm giảm thiểu tình trạng cò mồi - một trong những nguyên nhân làm tăng chi phí xuất cảnh đối với người lao động.

Từ năm 2012, Bộ đã ban hành các văn bản hướng dẫn về chi phí cũng như chấn chỉnh công tác đưa lao động tại một số thị trường như Nhật Bản, Đài Loan. Các văn bản này đã quy định mức trần môi giới đối với các thị trường cũng như đề ra lộ trình giảm phí đối với người lao động. Bộ cũng tổ chức giám sát việc triển khai áp dụng lộ trình giảm phí này thông qua kiểm tra, phỏng vấn người lao động trước khi xuất cảnh và sau khi nhập cảnh (đối với thị trường Đài Loan).

Trong thời gian tới, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp tục thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ để giảm thiểu tối đa chi phí cho người lao động. Mặt khác tiếp tục kiến nghị với Chính phủ có những biện pháp hỗ trợ nhằm giảm chi phí xuất cảnh cho người lao động thông qua các Chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án thuộc ngân sách Nhà nước.

26. Cử tri tỉnh Thanh Hóa  kiến nghị:  Hiện tại đơn hàng dành cho lao động huyện nghèo còn rất hạn chế (chủ yếu là các đơn hàng ở những thị trường có thu nhập thấp như Malaysia, Ả rập Xê út, một số nước Trung Đông,...). Do đó, cơ hội lựa chọn để tham gia đi làm việc ở nước ngoài ở các thị trường có thu nhập cao rất khó khăn (đặc biệt là khó khăn trong việc vay vốn). Đề nghị bổ sung đơn hàng và thị trường dành cho lao động huyện nghèo đi xuất khẩu lao động để được hưởng chính sách theo Quyết định số 71/QĐ-TTg của Chính phủ.

Trả lời:

Theo thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội trong năm 2016 có 25 doanh nghiệp thực hiện đưa lao động huyện nghèo theo Quyết định số 71/2009/QĐ-CP của Chính phủ đi làm việc ở nước ngoài với tổng số lao động được đăng ký là 2.392 người đi làm việc các thị trường Ả rập xê út, Malaysia, Quatar, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc. Tuy nhiên số lao động huyện nghèo đi làm việc ở nước ngoài chủ yếu tập trung vào các thị trường có thu nhập thấp như Ả rập xê út, Malaysia do một số nguyên nhân sau:

- Lao động huyện nghèo đa phần có trình độ thấp, chưa tốt nghiệp phổ thông trung học, không có tay nghề, khả năng học ngoại ngữ kém, tâm lý người lao động ngại xa nhà, chưa có tính kỷ luật cao.

- Lao động huyện nghèo thường ở những địa phương xa khó khăn cho doanh nghiệp thực hiện tuyển chọn.

- Khi tham gia vào các thị trường thu nhập cao người lao động huyện nghèo chưa đáp ứng được các yêu cầu điều kiện của thị trường như: tốt nghiệp trung học phổ thông, trình độ ngoại ngữ, tay nghề đáp ứng yêu cầu tuyển dụng vì vậy số lượng đáp ứng yêu cầu các đơn hàng thấp.

Để tăng số lượng người lao động huyện nghèo có thể tham gia vào các thị trường thu nhập cao như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo Trung tâm lao động ngoài nước (là đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ đang triển khai chương trình đưa lao động sang Hàn Quốc, đưa thực tập sinh sang Nhật Bản và đưa điều dưỡng chăm sóc người già sang Đức và các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài chú trọng hơn trong việc tuyển chọn người lao động thuộc các huyện nghèo, tăng cường đào tạo người lao động, rèn luyện tính kỷ luật cho người lao động. Đồng thời lựa chọn các hợp đồng cung ứng phù hợp với năng lực của người lao động huyện nghèo để thực hiện tuyển chọn tại các địa phương. Bộ cũng chỉ đạo các Sở Lao động Thương binh và Xã hội có huyện nghèo tăng cường công tác đào tạo nghề, ngoại ngữ tại địa phương tạo nguồn cho lao động xuất khẩu tham gia vào các thị trường thu nhập cao.

27. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh  kiến nghị: Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và xã hội trình Chính phủ bổ sung cho huyện Thạch Hà được đưa vào danh sách các xã bãi ngang ven biển chịu ảnh hưởng sự cố môi trường biển được đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc.

Trả lời:

 Trong khuôn khổ hợp tác lao động với Hàn Quốc, thực hiện Bản ghi nhớ về phái cử và tiếp nhận lao động sang làm việc tại Hàn Quốc theo chương trình EPS (Bản MOU) ký giữa Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Bộ Việc Làm và Lao động Hàn Quốc, từ 2004 đến nay, ta đã đưa được 90.000 lượt người lao động sang làm việc tại Hàn Quốc. Tuy nhiên từ tháng 8/2012, do tình trạng người lao động Việt Nam cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc tăng cao (lên đến 55% thời điểm cuối năm 2011 và năm 2012) phía Hàn Quốc đã không tiếp tục ký bản MOU với Việt Nam. Sau nhiều nỗ lực của các Bộ, ngành và các cấp chính quyền địa phương trong việc thực hiện các chính sách giải pháp giảm tỷ lệ lao động bất hợp pháp tại Hàn Quốc, ngày 17/5/2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Việc làm và Lao động Hàn Quốc đã ký Bản MOU bình thường chính thức nối lại việc phái cử và tiếp nhận lao động sang làm việc tại Hàn Quốc theo chương trình EPS sau gần 4 năm bị gián đoạn.

Theo nội dung Bản MOU ký ngày 17/5/2016 nêu trên, hai bên thống nhất thực hiện các giải pháp giảm tỷ lệ lao động động Việt Nam cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc, trong đó có giải pháp hạn chế tuyển chọn lao động ở các địa phương có tỷ lệ và số lượng lao động cư trú bất hợp pháp cao tại Hàn Quốc. Khi sự cố môi trường xảy ra ở 4 tỉnh miền Trung. Bộ đã nhiều lần đề nghị phía Hàn Quốc xem xét không tạm dừng tuyển chọn đối với các địa phương bị ảnh hưởng bởi sự cố môi trường. Tuy nhiên, phía Hàn Quốc chỉ thống nhất người lao động tại một số địa phương trong số 44 quận, huyện bị tạm dừng tuyển chọn năm 2016 được đăng ký tham dự kỳ thi tiếng Hàn ngành ngư nghiệp trong năm 2016 (tỉnh Hà Tĩnh: huyện Nghi Xuân, huyện Cẩm Xuyên và huyện Kỳ Anh; tỉnh Quảng Bình: huyện Bố Trạch và huyện Quảng Trạch). Bộ đã có Công văn số 2843/LĐTBXH-QLLĐNN ngày 29/7/2016 gửi các địa phương về nội dung này.

Trong thời gian tới, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục trao đổi, đàm phán với phía Hàn Quốc để mở rộng địa bàn tuyển chọn tại các địa phương bị tạm dừng tuyển chọn lao động; đồng thời đề nghị huyện Thạch Hà tích cực phối hợp trong việc vận động lao động của địa phương hết hạn hợp đồng về nước để giảm tỷ lệ lao động hết hạn hợp đồng ở lại cư trú và làm việc bất hợp pháp tại Hàn Quốc.

28. Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị: Theo quy định tại Khoản 1, Điều 5 Nghị định 126/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, mức tiền ký quỹ của doanh nghiệp đưa lao động đi xuất khẩu lao động là 1.000.000.000 đồng, đây là mức thấp, đề nghị tăng lên 3.000.000.000 đồng để giải quyết những vấn đề phát sinh liên quan đến người lao động

Trả lời:

Theo Khoản 1, Điều 5 Nghị định số 126/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, mức tiền ký quỹ của doanh nghiệp dịch vụ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài là 1.000.000.000 đồng. Trong 10 năm thực hiện, mặc dù chưa có trường hợp nào Bộ phải sử dụng tiền ký quỹ của doanh nghiệp để giải quyết phát sinh cho người lao động nhưng Bộ cũng nhận thấy mức tiền ký quỹ quy định trong Nghị định số 126/2007/NĐ-CP không còn phù hợp với thực tế đối với chi phí phát sinh tại các thị trường tiếp nhận lao động. Doanh nghiệp hoạt động nếu gặp rủi ro thì khoản tiền ký quỹ này không đảm bảo đủ để giải quyết vụ việc.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang tiến hành đánh giá, nghiên cứu xem xét mức tiền ký quỹ cũng như các nội dung sử dụng tiền ký quỹ để phù hợp với thực tế hiện nay. Nội dung này sẽ được đưa vào dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng dự kiến trình Quốc hội năm 2019 và các văn bản hướng dẫn Luật.

29. Cử tri tỉnh Tuyên Quang  kiến nghị:  Xem xét, tạo điều kiện cho hộ nghèo, hộ cận nghèo được vay vốn để đi lao động ở nước ngoài với mức vốn vay đáp ứng được yêu cầu của hợp đồng lao động tại các nước (trên 50 triệu đồng) mà không phải dùng tài sản đảm bảo để thế chấp. Tại Điều 37, Nghị định số 61/2015/NĐ-CP, ngày 09/7/2015 của Chính Phủ quy định: “Đối với mức vay trên 50 triệu đồng, người lao động vay vốn ưu đãi để đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phải có tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật”. Với quy định đó, những người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo khó có thể tiếp cận được nguồn vốn này vì không có tài sản đảm bảo để thế chấp.

Trả lời:

 Điều 37, Nghị định số 61/NĐ-CP ngày 09/7/2015 của Chính phủ quy định về điều kiện đảm bảo tiền vay đối với đối tượng vay vốn là lao động thuộc hộ cận nghèo, lao động là thân nhân người có công với cách mạng từ nguồn Quỹ quốc gia việc làm. Đối với các đối tượng là hộ nghèo, hộ bị thu hồi đất nông nghiệp và người lao động là người dân tộc thiểu số được vay vốn từ Ngân hàng Chính sách Xã hội theo quy định của pháp luật.

Thực hiện quy định trên, Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam có công văn số 4289/NHCS-TDNN ngày 25/12/2015 hướng dẫn nghiệp vụ cho vay đối với người lao động thuộc diện hộ cận nghèo và thân nhân người có công với cách mạng và công văn số 607/NHCS-TDNN ngày 15/3/2016 hướng dẫn nghiệp vụ cho vay đối tượng là lao động thuộc huyện nghèo, hộ dân tộc thiểu số. Đối với các đối tượng là lao động thuộc huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP, khi vay vốn ưu đãi với mức trên 50 triệu đồng/1 lao động để đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng không cần phải thực hiện bảo đảm tiền vay bằng tài sản. Đối với lao động là hộ nghèo, hộ cận nghèo không thuộc đối tượng nêu trên, khi vay vốn ưu đãi với mức vay trên 50 triệu đồng/1 lao động để đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng phải thực hiện đảm bảo tiền vay bằng tài sản; nếu người vay không có đủ giá trị tài sản để đảm bảo thì chỉ cho vay mức tối đa là 50 triệu đồng/01 lao động.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ nghiên cứu, phối hợp với các cơ quan có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ nâng mức vay phải có tài sản đảm bảo tiền vay để tại điều kiện cho đối tượng thuộc hộ nghèo được hỗ trợ vay vốn đi làm việc ở nước ngoài đáp ứng yêu cầu của hợp đồng.

30. Cử tri tỉnh Quảng Bình, Tây Ninh, Hà Nam, Phú Thọ, Đắk Lắk, Quảng Nam, Đồng Tháp, Long An kiến nghị: Cử tri phản ánh, chế độ thờ cúng Liệt sĩ được áp dụng định mức 500.000 đồng/năm là quá thấp, trong lúc đó giá cả ngày càng cao, không đủ để chi phí cho việc thờ cúng được trang nghiêm; đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nghiên cứu, đề xuất Chính phủ tăng định mức thờ cúng.

Trả lời:

Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định: “Liệt sĩ không còn thân nhân thuộc diện hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng thì người được giao thờ cúng liệt sĩ được hưởng trợ cấp mỗi năm một lần”.

Đây là khoản hỗ trợ việc thờ cúng liệt sĩ đối với người được ủy quyền thờ cúng liệt sĩ, không phải khoản trợ cấp toàn bộ các chi phí của việc thờ cúng.

Kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ nghiên cứu, báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định khi sửa đổi Nghị định số 31/2013/NĐ-CP.

31. Cử tri tỉnh Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Tiền Giang kiến nghị: Cử tri đề nghị bổ sung Nghị định số 31/2013/NĐ-CP quy định hỗ trợ bảo hiểm y tế và các chế độ chính sách khác đối với vợ hoặc chồng liệt sĩ tái giá như đối với thân nhân liệt sĩ theo quy định của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Xem xét cấp thẻ bảo hiểm xã hội cho vợ liệt sĩ tái giá.

Trả lời:

Về kiến nghị của cử tri, khi Chính phủ có chủ trương sửa đổi Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ; để phù hợp, hài hòa chính sách ưu đãi giữa các đối tượng người có công với cách mạng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội dự kiến sẽ đề xuất bổ sung thêm chế độ Bảo hiểm y tế đối với vợ liệt sĩ tái giá.

32. Cử tri các tỉnh: TP Hà Nội, Đắk Lắk, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Gia Lai, Long An -  Kiến nghị số 03; Cử tri tỉnh Đồng Tháp, Ninh Thuận - Kiến nghị số 21; Cử tri tỉnh An Giang,Vĩnh Long - Kiến nghị số 22; Cử tri tỉnh Kiên Giang - Kiến nghị số 34; Cử tri tỉnh Đắk Lắk - Kiến nghị số 78; Cử tri tỉnh Kiên Giang - Kiến nghị số 82;Cử tri tỉnh Quảng Nam - Kiến nghị số 83; Cử tri tỉnh Vĩnh Long - Kiến nghị số 87; Cử tri tỉnh Bình Định - Kiến nghị số 8) kiến nghị: Nhóm kiến nghị về việc có chính sách đối với người tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ nói chung, người bị nhiễm chất độc hóa học, người bị địch bắt tù đày, thanh niên xung phong, liệt sĩ, thương binh, bệnh binh nói riêng nhưng do thất lạc, mất giấy tờ nên chưa được hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước; giải quyết dứt điểm các hồ sơ tồn đọng; giải quyết những vướng mắc khi thi hành Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BLĐTBXH-BQP ngày 22/10/2013; đề nghị ban hành và hướng dẫn thực hiện chế độ, chính sách đối với các đối tượng tham gia truy quét Fulro sau năm 1975.

Trả lời:

a) Việc xác nhận và giải quyết chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học nhưng hiện nay bị mất giấy tờ, Bộ Quốc phòng đã ban hành Công văn số 9243/BQP-CT ngày 31/10/2014, trong đó quy định: “Trường hợp đối tượng có thời gian thực tế công tác ở chiến trường B,C,K nhưng không còn hồ sơ, giấy tờ liên quan chứng minh đã công tác tại địa bàn quy định tại Khoản 1, Điều 39, Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của chính phủ; cấp Trung đoàn và tương đương trở lên thuộc đơn vị quản lý (thời gian đối tượng công tác tại chiến trường) xác nhận về phiên hiệu, ký hiệu, thời gian và địa bàn hoạt động của đơn vị cho đối tượng. Đối với cơ quan, đơn vị đã giải thể hoặc sáp nhập thì cơ quan, đơn vị cấp trên trực tiếp hoặc đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm xác nhận”.

Vì vậy, những trường hợp không còn giấy tờ chứng minh thời gian công tác ở vùng Mỹ sử dụng chất độc hóa học đề nghị liên hệ với cơ quan chức năng thuộc Bộ Quốc phòng theo quy định trên để được xem xét xác nhận về thời gian và địa bàn hoạt động.

b) Việc xác nhận và giải quyết chế độ người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày, cần đảm bảo các giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều 33 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 và Điều 9 Thông tư số 16/2014/TT-BLĐTBXH ngày 30/7/2014 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Trường hợp bị thất lạc hồ sơ lưu trữ và hồ sơ gốc mà cũng không có các giấy tờ khác có cơ sở pháp lý thì hiện nay chưa đủ căn cứ để xác nhận, giải quyết chế độ người bị địch bắt, tù đày. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục nghiên cứu cụ thể kiến nghị này.

c) Việc xác nhận và giải quyết chế độ đối với Thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, những quân nhân có thời gian nhập ngũ trước 30/4/1975 đã có thời gian tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, khi xuất ngũ về địa phương chưa được hưởng chế độ của Nhà nước được thực hiện theo các Quyết định số 290/2005/QĐ-TTg ngày 08/11/2005, Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg ngày 27/10/2008, Quyết định số 40/2011/QĐ-TTg ngày 27/7/2011, Quyết định số 49/2015/QĐ-TTg ngày 14/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ. Trường hợp không còn hồ sơ gốc thì làm thủ tục theo hướng dẫn tại các Thông tư liên tịch số 191/2005/TTLT/BQP-BLĐTBXH-BTC ngày 07/12/2005 hướng dẫn Quyết định số 290/2005/QĐ-TTg; Thông tư liên tịch số 144/2008/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC ngày 27/11/2008 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg; Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BLĐTBXH-BNV-BTC hướng dẫn Quyết định số 40/2011/QĐ-TTg; Thông tư liên tịch số 138/2015/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC ngày 16/12/2015 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 49/2015/QĐ-TTg.

d) Việc giải quyết hồ sơ người có công còn tồn đọng là công việc phức tạp, phần lớn những đối tượng này đều thuộc diện không còn giấy tờ nên yêu cầu phải có thời gian kiểm tra, xác minh để có kết luận chính xác. Việc xác nhận người có công với cách mạng mặc dù được xây dựng theo nguyên tắc cải cách thủ tục hành chính nhưng cũng không thể thiếu cơ sở pháp lý, nhằm tránh việc lợi dụng chính sách, man khai hồ sơ, xác nhận sai sự thật hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước.

Việc xác nhận và giải quyết chế độ đối với người có công hiện nay không còn hồ sơ gốc, được thực hiện theo Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BLĐTBXH-BQP.

Đối với những trường hợp không còn căn cứ để thực hiện theo Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BLĐTBXH-BQP, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang chỉ đạo giải quyết hồ sơ người có công tồn đọng thí điểm tại 05 tỉnh, thành phố: Bắc Kạn, Lai Châu, Thái Bình, Long An và thành phố Đà Nẵng. Dự kiến, tháng 1/2017 sẽ sơ kết, rút kinh nghiệm và tiếp tục triển khai ở các địa phương còn lại.

đ) Chế độ đối với người trực tiếp tham gia truy quét Fulro từ tháng 5 năm 1975 đến 31/12/1988 đã được quy định tại Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, giúp bạn Lào sau ngày 30/4/1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc.

33. Cử tri tỉnh Bình Thuận, Đồng Tháp, Tiền Giang, Quảng Ngãi kiến nghị: Về chế độ đối với Mẹ Việt Nam anh hùng khi mất: Tại Điều 23. Chế độ ưu đãi quy định: “Khi Bà mẹ Việt Nam anh hùng chết, người tổ chức mai táng được nhận mai táng phí; đại diện thân nhân được hưởng trợ cấp một lần bằng ba tháng trợ cấp, phụ cấp ưu đãi”. Cử tri đề nghị Bộ xem xét có chế độ trợ cấp thờ cúng bà Mẹ Việt Nam anh hùng như quy định trợ cấp thờ cúng liệt sĩ (tại Điều 21).

Trả lời:

Trong số các đối tượng người có công thì liệt sĩ là người đã hy sinh thân mình vì Tổ quốc. Vì vậy, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng có những quy định riêng đối với liệt sĩ về lễ an táng, truy điệu; xây dựng, quản lý các công trình liệt sĩ, cùng với đó là chế độ thờ cúng liệt sĩ hàng năm.

Bà mẹ Việt Nam anh hùng cũng như các đối tượng người có công khác (cán bộ Lão thành cách mạng, cán bộ Tiền khởi nghĩa, Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng Lao động thời kỳ kháng chiến, thương binh,…) từ trần thì thân nhân được hưởng trợ cấp mai táng phí và trợ cấp một lần theo quy định hiện hành là phù hợp, công bằng giữa các đối tượng người có công.

34. Cử tri tỉnh: thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh: Phú Yên, Vĩnh Phúc - Kiến nghị số 05; Cử tri tỉnh: Hậu Giang, Long An, Bà Rịa - Vũng Tàu - Kiến nghị số 06; Cử tri tỉnh: Thái Bình, Tiền Giang, Tây Ninh - Kiến nghị số 07; Cử tri tỉnh: Nghệ An, Long An - Kiến nghị số 16; Cử tri thành phố Hà Nội - Kiến nghị số 46:  Nhóm các kiến nghị về việc cần xem xét tăng trợ cấp cho các đối tượng người có công với cách mạng nói chung, thương binh, bệnh binh, cựu tù yêu nước, vợ liệt sỹ, mẹ liệt sỹ nói riêng; Đề nghị có chính sách hỗ trợ hàng tháng cho những người tham gia kháng chiến có Huân chương, Huy chương các loại; đề nghị tăng mức chi trả khám chữa bệnh bằng thẻ Bảo hiểm y tế.

Trả lời:

a) Về đề nghị xem xét nâng mức trợ cấp, phụ cấp đối với thương binh, bệnh binh: Việc nâng mức trợ cấp, phụ cấp đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh, bệnh binh, người bị địch bắt tù đày (nói riêng) và người có công (nói chung) được thực hiện theo Nghị quyết hàng năm của Quốc hội về trợ cấp ưu đãi người có công.

b) Về đề nghị có chính sách hỗ trợ hàng tháng cho những người tham gia kháng chiến có Huân chương, Huy chương: Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay chưa cho phép thực hiện chế độ trợ cấp hàng tháng đối với những người tham gia kháng chiến được tặng thưởng Huân, Huy chương.

c) Về đề nghị tăng mức chi trả khám chữa bệnh bằng thẻ Bảo hiểm y tế: Đề nghị Ban Dân nguyện chuyển kiến nghị đến Bộ Y tế để trả lời theo thẩm quyền.

35. Cử tri tỉnh Phú Thọ, Đắk Lắk, Quảng Nam kiến nghị: Cử tri xem xét điều chỉnh theo hướng quy định rõ số tiền tuất tương ứng với số con là liệt sĩ của họ để đảm bảo công bằng và xứng đáng với sự hy sinh của con họ đối với Tổ quốc.

Thực hiện Thông tư số 16/2014/TT-BLĐTBXH ngày 30/7/2014 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về hướng dẫn một số nội dung xác nhận và thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng, đối với người nhiễm chất độc hóa học còn một số điểm không hợp lý. Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xem xét lại phụ cấp người phục vụ đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học đang hưởng trợ cấp theo mức tỷ lệ suy giảm KNLĐ từ 81% trở lên thuộc nhóm không có biên bản giám định hoặc biên bản giám định không có kết luận tỷ lệ cụ thể, hầu hết các đối tượng này tuổi cao, bệnh tật nặng, nhiều người nằm liệt giường, hoàn cảnh hết sức khó khăn. (Cử tri tỉnh Bắc Kạn, Hà Tĩnh, Lào Cai – Kiến nghị số 09). Đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét sửa đổi Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 theo hướng quy định Nhà nước mua bảo hiểm y tế cho cha đẻ, mẹ đẻ; vợ hoặc chồng; con từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi hoặc từ đủ 18 tuổi trở lên nếu còn tiếp tục đi học hoặc bị khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng khi người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 còn sống (theo Pháp lệnh chỉ ưu đãi khi người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945 chết là chưa phù hợp).

Trả lời:

Về các kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng nghiên cứu và đề xuất cụ thể khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (hoặc xây dựng Luật Người có công với cách mạng).

36. Cử tri tỉnh Bắc Kạn, Bắc Giang, Lào Cai, Gia Lai kiến nghị:  Đề nghị ban hành văn bản hướng dẫn xác nhận quân nhân tham gia kháng chiến tại vùng bị Mỹ rải chất độc hoá học sau khi xuất ngũ không còn các giấy tờ gốc chứng minh thời gian tham gia hoạt động kháng chiến hoặc trở về địa phương giấy tờ gốc bị hoả hoạn hoặc thất lạc nên không đủ các giấy tờ theo quy định để đề nghị được hưởng chế độ bị nhiễm chất độc hoá học. Cử tri tiếp tục đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ ngành chức năng nghiên cứu có hướng dẫn giải quyết chế độ cho người tham gia kháng chiến tại các chiến trường, người bị nhiễm chất độc màu da cam nhưng không còn giấy tờ gốc chứng minh.

Trả lời:

Việc xác nhận và giải quyết chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học nhưng hiện nay bị mất giấy tờ, Bộ Quốc phòng đã ban hành Công văn số 9243/BQP-CT ngày 31/10/2014, trong đó quy định: “Trường hợp đối tượng có thời gian thực tế công tác ở chiến trường B,C,K nhưng không còn hồ sơ, giấy tờ liên quan chứng minh đã công tác tại địa bàn quy định tại Khoản 1, Điều 39, Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của chính phủ; cấp Trung đoàn và tương đương trở lên thuộc đơn vị quản lý (thời gian đối tượng công tác tại chiến trường) xác nhận về phiên hiệu, ký hiệu, thời gian và địa bàn hoạt động của đơn vị cho đối tượng. Đối với cơ quan, đơn vị đã giải thể hoặc sáp nhập thì cơ quan, đơn vị cấp trên trực tiếp hoặc đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm xác nhận”.

Vì vậy, những trường hợp không còn giấy tờ chứng minh thời gian công tác ở vùng Mỹ sử dụng chất độc hóa học đề nghị liên hệ với cơ quan chức năng thuộc Bộ Quốc phòng theo quy định trên để được xem xét xác nhận về thời gian và địa bàn hoạt động.

37. Cử tri tỉnh Quảng Bình, Quảng Ngãi kiến nghị: Về đối tượng hưởng trợ cấp do bị nhiễm chất độc Dioxin: Cử tri đề nghị Bộ LĐTBXH xem xét, trình Chính phủ bổ sung đối tượng được hưởng chế độ, chính sách đối với người bị nhiễm chất độc Dioxin đối với thế hệ thứ 3 bị nhiễm qua di truyền (tại Điều 44 Nghị định 31/2013/NĐ-CP chỉ nêu đối với con đẻ người bị nhiễm Dioxin) và bổ sung đối tượng được hưởng chính sách này đối với những người có công bám trụ cơ sở, địa bàn và chịu rất nhiều khó khăn trong kháng chiến.

Hiện nay, cán bộ, chiến sĩ tham gia kháng chiến chống Mỹ bị nhiễm chất độc da cam/dioxin được hưởng chế độ của Nhà nước. Đề nghị Bộ xem xét, trình Chính phủ có chính sách trợ cấp cho người dân bị nhiễm chất độc da cam/dioxin.

Trả lời:

a) Đối với người dân bị nhiễm chất độc hóa học và thế hệ thứ 3 của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, sau khi có quy định cụ thể của ngành y tế về tiêu chí, quy trình, thủ tục khám, kết luận mức độ ảnh hưởng do chất độc hóa học, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất về chính sách, chế độ đối với đối tượng này.

b) Về kiến nghị bổ sung đối tượng hưởng chính sách, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng nghiên cứu, đề xuất cụ thể khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (hoặc xây dựng Luật Người có công với cách mạng).

38. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi, Phú Yên kiến nghị: Về hồ sơ giải quyết chế độ đối với người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị bắt tù, đày: Theo quy định tại Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH và Thông tư số 16/2014/TT-BLĐTBXH của Bộ LĐTBXH thì yêu cầu hồ sơ để làm hưởng chế độ người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị bắt tù, đày phải có các loại giấy tờ: Lý lịch cán bộ, lý lịch Đảng viên (lập từ ngày 01/01/1995 trở về trước); hồ sơ hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội có xác định nơi bị tù, thời gian bị tù; lý lịch quân nhân, công an nhân dân; hồ sơ khen thưởng tổng kết thành tích tham gia kháng chiến. Cử tri cho rằng, với các quy định trên thì chỉ những người là đảng viên, cán bộ, quân nhân mới có thể đáp ứng được, còn những người khác tham gia kháng chiến thì không thể có đầy đủ các loại giấy tờ theo yêu cầu. Hơn nữa, trong thời kháng chiến, mọi người tham gia chiến đấu, góp sức vào thành công của cách mạng chỉ mong đất nước được giải phóng, không nghĩ đến việc hưởng chế độ sau này nên không còn lưu giữ giấy tờ. Cử tri cho rằng hiện tại hồ sơ đề nghị chỉ chấp nhận lý lịch hoặc chứng từ có chứng minh đã bị địch bắt tù đày là không hợp lý, vì cho rằng nếu như người bị bắt tù đày gan dạ, dũng cảm không khai ra thì lấy đâu ra tàn thư, hoặc ghi trong lý lịch cũ để được hưởng chế độ tù đày. Vì vậy, cử tri đề nghị Bộ LĐTBXH nghiên cứu quy định về hồ sơ phù hợp, phương thức xác minh hợp lý đối với người dân tham gia cách mạng bị bắt tù, đày để đảm bảo những người thực sự có công cách mạng, hoạt động cách mạng bị bắt tù, đày sớm được hưởng chế độ, chính sách đền ơn đáp nghĩa của nhà nước.

Trả lời:

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 16/2014/TT-BLĐTBXH ngày 30/7/2014 hướng dẫn một số nội dung xác nhận và thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng. Theo đó, ngoài quy định tại Khoản 2 Điều 33 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 thì tại Khoản 1 Điều 9 đã bổ sung một trong những giấy tờ xác định nơi bị tù, thời gian tù:

- Bản sao một trong các giấy tờ: lý lịch quân nhân, lý lịch công an nhân dân (lập từ ngày 01 tháng 01 năm 1995 trở về trước); hồ sơ khen thưởng tổng kết thành tích tham gia kháng chiến; hồ sơ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội;

- Bản sao giấy tờ, tài liệu khác có giá trị pháp lý lập từ ngày 01 tháng 01 năm 1995 trở về trước;

- Xác nhận của cơ quan chức năng thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an về thời gian tù và nơi bị tù.

Như vậy, người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến không phải là cán bộ, đảng viên nếu có các giấy tờ chứng minh thời gian tù, địa điểm tù vẫn được xem xét xác nhận và giải quyết chế độ theo quy định. 

39. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh, Bạc Liêu  kiến nghị:  Cử tri đề nghị Nhà nước cần quan tâm điều chỉnh các chế độ, chính sách cho người có công cho phù hợp với với điều kiện thực tế hiện nay. Quan tâm rút ngắn, đơn giản trình tự và thủ tục thực hiện các chế độ chính sách, việc giám định y khoa đối với các đối tượng là nạn nhân chất độc hóa học da cam trong trường hợp phát bệnh ở giai đoạn cuối.

Trả lời:

a) Việc điều chỉnh các chế độ trợ cấp, phụ cấp đối với người có công được thực hiện theo Nghị quyết hàng năm của Quốc hội về trợ cấp ưu đãi người có công.

b) Về kiến nghị đơn giản trình tự và thủ tục giám định y khoa, thực hiện các chế độ chính sách với các đối tượng là nạn nhân chất độc hóa học da cam trong trường hợp phát bệnh ở giai đoạn cuối, đề nghị Ban Dân nguyện chuyển đến Bộ Y tế để được trả lời cụ thể.

40. Cử tri tỉnh Vĩnh Long, Tiền Giang kiến nghị: Nhiều cử tri phản ánh hiện nay việc cấp đổi lại Bằng Liệt sĩ bị hư hỏng rất chậm; trước khi ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung các quy định về việc hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà cho vợ liệt sĩ tái giá cũng cần nên thống kê rà soát lại để mọi đối tượng đều được hưởng quyền lợi như nhau, sau đó tiếp tục ban hành văn bản mới, tránh trường hợp người giải quyết trước thì được hưởng quyền lợi, còn người giải quyết sau do quy định này hết hiệu lực thi hành nên phải chịu thiệt thòi.

Trả lời:

a) Về việc cấp đổi lại Bằng “Tổ quốc ghi công” đã được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở triển khai:

- Tỉnh Vĩnh Long: đến tháng 11/2016 Sở Lao động - Thương binh và xã hội mới có báo cáo đề nghị cấp đổi 564 bằng “Tổ quốc ghi công”. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (Cục Người có công) đã làm thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ cấp lại để gửi về tỉnh.

- Tỉnh Tiền Giang: Trong năm 2016 Sở Lao động - Thương binh và xã hội đã đề nghị cấp đổi 730 bằng “Tổ quốc ghi công” theo 4 đợt.

Bộ Lao động - Thương binh và xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ cấp lại, gửi về tỉnh 641 Bằng của 3 đợt đầu.

Đối với 89 Bằng mới được Sở Lao động - Thương binh và Xã hội báo cáo đề nghị trong tháng 11/2016, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (Cục Người có công) đã làm thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ cấp lại để gửi về tỉnh.

b) Theo quy định hiện hành, vợ liệt sĩ tái giá chỉ hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng nếu đủ điều kiện. Chính sách hiện hành chưa quy định chính sách hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở đối với vợ liệt sĩ tái giá; do vậy không tiến hành thống kê số đối tượng này theo đề nghị của cử tri.

41. Cử tri tỉnh Hậu Giang, Tây Ninh kiến nghị: Việc cấp thẻ bảo hiểm y tế cho đối tượng là thương binh, gia đình chính sách, nhưng người thân (vợ) của đối tượng này không được cấp BHYT là bất hợp lý (trong khi hộ nghèo thì được hưởng cả hộ). Kiến nghị ngành chức năng xem xét, hỗ trợ thêm BHYT cho người thân của đối tượng thương binh được hưởng như hộ nghèo.

Trả lời:

Mỗi chính sách có một tiêu chí khác nhau để xác định đối tượng. Chính sách giảm nghèo xác định đối tượng thụ hưởng theo số nhân khẩu trong hộ, tức là có thể cha mẹ được hưởng chính sách nhưng con lại không được hưởng nếu con không ở cùng hộ khẩu với cha mẹ. Còn chính sách ưu đãi người có công xác định đối tượng thụ hưởng theo công lao đóng góp và theo quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng. Theo đó, nếu một người hy sinh được công nhận liệt sĩ thì thân nhân (cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con…) đều được nhà nước mua bảo hiểm y tế, không phân biệt có ở cùng hộ hay không. Vì vậy, không thể lấy tiêu chí của chính sách giảm nghèo để áp dụng đối với đối tượng thụ hưởng chính sách ưu đãi người có công và ngược lại.

42. Cử tri tỉnh thành phố Hà Nội, tỉnh Tiền Giang - Kiến nghị số 18; Cử tri tỉnh Bình Thuận - Kiến nghị số 30; Cử tri tỉnh Phú Yên - Kiến nghị số 37; Cử tri tỉnh Tây Ninh - Kiến nghị số 40 kiến nghị: Nhóm kiến nghị về việc giải quyết chế độ cho thương binh đồng thời là bệnh binh hoặc mất sức lao động.

Trả lời:

Những trường hợp trước đây đã hưởng chế độ thương binh, khi về nghỉ mất sức lao động (hoặc bệnh binh) thì Hội đồng Giám định y khoa đã cộng cả tỷ lệ thương binh (giám định gộp) để đủ điều kiện về hưởng chế độ mất sức lao động hoặc chế độ bệnh binh và chỉ được hưởng một chế độ cao hơn trong hai chế độ ấy; nếu hưởng cả hai chế độ thì sẽ bị trùng.

Tuy nhiên trong thực tế có một số trường hợp thiệt thòi, đặc biệt là những trường hợp có nhiều năm công tác. Vì vậy, kể từ Nghị định số 102/2002/NĐ-CP ngày 11/12/2002 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã quy định một số điều kiện để hưởng hai chế độ thương binh và mất sức lao động. Những trường hợp đã giám định gộp nhưng nếu đủ thời gian công tác thực tế từ 20 năm trở lên hoặc có đủ 15 năm công tác liên tục trong quân đội, công an thì được xem xét giải quyết hai chế độ.

Chính sách hiện hành quy định như trên đảm bảo công bằng, cân đối trong chính sách ưu đãi người có công với cách mạng nói riêng và các chính sách xã hội nói chung, phù hợp theo công lao đóng góp của từng diện đối tượng. Do vậy, không có cơ sở để giải quyết đồng thời hai chế độ đối với những đối tượng không đủ điều kiện theo quy định nêu trên. 

43. Cử tri tỉnh Bình Thuận, Khánh Hoà kiến nghị:  Đề nghị xem xét nâng Pháp lệnh Người có công lên thành Luật Người có công.

Trả lời:

Ngày 23/11/2016, Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội đã có phiên họp toàn thể để thẩm tra dự án Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Tại cuộc họp, nhiều đại biểu có ý kiến đề nghị xem xét xây dựng Luật ưu đãi người có công với cách mạng trong thời gian tới. Việc xem xét xây dựng Luật Người có công thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiến hành nghiên cứu, xây dựng Luật Người có công khi được Quốc hội, Chính phủ giao.

44. Cử tri thành phố Hải Phòng, tỉnh Nghệ An kiến nghị: Cử tri phản ánh, địa phương đã tổng hợp danh sách đề nghị cấp lại Bằng Tổ quốc ghi công, Bằng khen, Giấy khen trong thời kỳ kháng chiến (do bị nhàu nát, mối mọt) cho các đối tượng chính sách trên địa bàn quận và thành phố, song đến nay vẫn chưa được thực hiện. Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xem xét sớm cấp lại các giấy tờ trên.

Trả lời:

a) Về việc cấp lại Bằng “Tổ quốc ghi công”:

- Thành phố Hải Phòng: Năm 2016, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã đề nghị cấp lại 1502 Bằng, cụ thể: danh sách tháng 1/2016 là 652 Bằng và danh sách tháng 5/2016 là 950 Bằng. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ cấp lại và chuyển tất cả số Bằng về địa phương trong tháng 4/2016 và tháng 8/2016.

- Tỉnh Nghệ An: Năm 2016, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã đề nghị cấp lại 753 Bằng, cụ thể: danh sách tháng 6/2016 là 101 Bằng và danh sách tháng 8/2016 là 652 Bằng. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ và chuyển 101 Bằng trong tháng 7/2016. Riêng 652 trường hợp đề nghị cấp lại theo danh sách tháng 8/2016 còn thiếu nhiều thông tin nên Cục Người có công đang phối hợp với địa phương tra cứu để hoàn thiện trình Thủ tướng Chính phủ cấp lại và chuyển Bằng về địa phương trong thời gian sớm nhất.

Như vậy, việc xem xét đề nghị cấp lại Bằng “Tổ quốc ghi công” của địa phương đã được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiến hành khá khẩn trương.

b) Về việc cấp lại Bằng khen và Giấy khen, đề nghị Ban Dân nguyện chuyển kiến nghị đến Bộ Nội vụ để trả lời theo thẩm quyền.

45. Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: Cử tri kiến nghị Chính phủ xem xét phong, truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” cho trường hợp bà mẹ Việt Nam có 3 con tham gia tòng quân cứu nước, có 01 con là liệt sĩ đã được Chính phủ tặng bảng vàng danh dự.

Trả lời:

Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22/5/2013 của Chính phủ do Bộ Quốc phòng chủ trì, tham mưu trình Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ ban hành. Do vậy, các kiến nghị liên quan đến điều kiện phong tặng hoặc truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, đề nghị Ban Dân nguyện chuyển đến Bộ Quốc phòng để trả lời theo thẩm quyền.

46. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri phản ảnh hiện nay chế độ chính sách đối với những người bị tù đày thời gian khác nhau (3 năm, 5 năm, 10 năm...) hoặc bộ đội phục viên thời gian phục vụ khác nhau đều được hưởng chế độ giống nhau như vậy là không công bằng. Kiến nghị các cơ quan chức năng xem xét lại (Cử tri thành phố Hồ Chí Minh – Kiến nghị số 25)

Trả lời:

a) Về chế độ chính sách đối với những người bị tù đày thời gian khác nhau:

Việc xác định mức độ cống hiến và công lao của mỗi người trong quá trình hoạt động cách mạng là rất khó khăn do tính chất gian khổ, các hình thức giam cầm, tra tấn của mỗi nhà tù là khác nhau. Do vậy, trước khi bổ sung quy định chuyển hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng thì người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày cơ bản đã được giải quyết trợ cấp một lần tương ứng với thời gian bị địch bắt, tù đày. Do vậy, việc quy định và thực hiện chính sách như hiện nay cơ bản là phù hợp.

b) Về kiến nghị liên quan đến chế độ chính sách đối với bộ đội phục viên có thời gian phục vụ khác nhau: đề nghị Ban Dân nguyện chuyển đến Bộ Quốc phòng để trả lời theo thẩm quyền.

47. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị:  Kiến nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Quốc phòng và các Bộ, ngành có liên quan tăng cường công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; xác định tên cho các liệt sĩ, nhằm đáp ứng niềm mong mỏi của thân nhân liệt sĩ và để thực hiện tốt đạo lý “uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc ta (Cử tri thành phố Cần Thơ – Kiến nghị số 26)

Trả lời:

Năm 2013, Chính phủ đã triển khai Đề án “Tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ” do Bộ Quốc phòng là cơ quan thường trực và Đề án “Xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin” do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan thường trực. Theo đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Quốc phòng đã và đang phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành có liên quan và các địa phương đẩy mạnh hoạt động này.

48. Cử tri tỉnh Bạc Liêu  kiến nghị: Cũng là người có công với đất nước nhưng chế độ giữa gia đình liệt sĩ với gia đình thương binh hiện nay chưa công bằng. Vì gia đình liệt sĩ được ưu đãi suốt đời, còn gia đình thương binh khi chết là cắt hết chế độ. Đề nghị cần xem xét lại.

Trả lời:

Trợ cấp ưu đãi người có công được xác định theo công lao, mức độ hy sinh, đóng góp của người có công. Trong 12 diện đối tượng, liệt sĩ là đối tượng đặc biệt vì đã hy sinh thân mình cho Tổ quốc, bản thân không được hưởng ưu đãi của Đảng, Nhà nước, do đó có các chính sách ưu đãi riêng được dành cho thân nhân liệt sĩ. Thương binh cũng như các diện người có công khác đều được hưởng chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước khi còn sống. Bên cạnh đó, khi thương binh từ trần thì con thương binh vẫn được hưởng những ưu đãi như giáo dục đào tạo, ưu tiên trong tuyển sinh, tạo việc làm... thân nhân thương binh suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên vẫn được hưởng tuất.

Do đó, việc thực hiện chế độ ưu đãi đối với gia đình thương binh và gia đình liệt sĩ như vậy là phù hợp.

49. Cử tri tỉnh Bắc Kạn kiến nghị: Đề nghị có hướng dẫn cụ thể thực hiện chế độ phụ cấp khu vực đối với bệnh binh hạng 3 (41-60%) chuyển từ quân nhân bị bệnh nghề nghiệp sang hưởng chế độ bệnh binh (Cử tri tỉnh Bắc Kạn – Kiến nghị số 28)

Trả lời:

Đề nghị Ban Dân nguyên chuyển kiến nghị của cử tri đến Bộ Nội vụ để trả lời theo thẩm quyền.

50. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Cử tri kiến nghị xem xét cho đối tượng đang hưởng lương hưu trí có thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ được hưởng chế độ người có công với cách mạng.

Trả lời:

Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng và Nghị định số 31/2013/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định cụ thể tiêu chuẩn và điều kiện để công nhận và thực hiện chế độ ưu đãi đối với 12 diện đối tượng người có công. Do đó, mọi trường hợp đủ điều kiện theo quy định đều được hưởng ưu đãi không phụ thuộc người đó có được hưởng lương hưu hay không.

51. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Đề nghị nhà nước quan tâm đầu tư xây dựng Trung tâm giám định ADN để tổ chức xác định danh tính của từng liệt sĩ chưa biết tên hiện nay (Cử tri tỉnh Bình Thuận – Kiến nghị số 31).

Trả lời:

Ngày 14/01/2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 150/QĐ-TTg phê duyệt Đề án xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin, trong đó có nội dung đầu tư, nâng cấp bảo đảm thực hiện xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin đạt 4.000 mẫu/năm cho các đơn vị. Đến nay, tiến độ đầu tư, nâng cấp các đơn vị giám định gen như sau:

- Viện Pháp y quân đội, Bộ Quốc phòng đã được đầu tư, nâng cấp giai đoạn 1, phòng thí nghiệm đạt công suất 4.000 mẫu/1 năm và hiện đang triển khai đầu tư, nâng cấp giai đoạn 2.

- Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Kỹ thuật Hóa học, Sinh học và Tài liệu nghiệp vụ - Bộ Công an đang trong quá trình triển khai nâng cấp.

52. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Tài chính sửa đổi Khoản 1 Điều 8 Thông tư liên tịch số 13/2014/TT-BLĐTBXH-BTC ngày 03/6/2014 hướng dẫn chế độ điều dưỡng phục hồi sức khỏe, cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình đối với người có công với cách mạng và thân nhân; quản lý các công trình ghi công liệt sỹ; theo đó, quy định trường hợp thương binh và bệnh binh mà trong biên bản giám định y khoa đã nêu rõ các vết thương thuộc danh mục được trợ cấp dụng cụ chỉnh hình thì căn cứ biên bản giám định của Hội đồng y khoa để cấp dụng cụ chỉnh hình.

Trả lời:

Việc trang cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình phải căn cứ vào chỉ định của cơ sở chỉnh hình phục hồi chức năng thuộc ngành Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc bệnh viện cấp tỉnh trở lên. Vì chỉ có cơ quan y tế mới có thẩm quyền về chuyên môn quyết định việc có hay không sử dụng phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình, phục hồi chức năng theo đúng tình trạng thương tật, sức khỏe của đối tượng.

Do vậy việc trang cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình không chỉ căn cứ vào biên bản giám định y khoa.

53. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị khi sửa đổi Pháp lệnh người có công cần rà soát hệ thống chính sách đối tượng đồng bộ hơn.

Trả lời:

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin tiếp thu ý kiến của cử tri.

54. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Cử tri kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ cần có chủ trương xây dựng, mở rộng chỉnh trang nghĩa trang liệt sỹ ở một trong các tỉnh biên giới phía Bắc xứng tầm nghĩa trang liệt sỹ cấp Quốc gia.

Trả lời:

Phù hợp với kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có ý kiến thống nhất với chủ trương đề nghị Nhà nước đầu tư trực tiếp nâng cấp cho nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên thuộc tỉnh Hà Giang.

55. Cử tri tỉnh Lào Cai  kiến nghị: Cử tri đề nghị Chính phủ nghiên cứu ban hành chính sách cho người không phải là con đẻ nhưng có công phụng dưỡng cha, mẹ liệt sỹ, nuôi con đẻ của liệt sỹ.

Trả lời:

Căn cứ điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay và để đảm bảo công bằng giữa các diện đối tượng, nguyên tắc giải quyết chế độ trợ cấp tuất đối với người có công với cách mạng là chỉ giải quyết đối với người có công và thân nhân chủ yếu của người có công, không có cơ sở để giải quyết chế độ đối với những trường hợp không phải là thân nhân của liệt sĩ (như người phụng dưỡng cha mẹ liệt sĩ).

56. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Cử tri đề nghị xem xét bổ sung người phụ nữ không phải là vợ của liệt sỹ nhưng có sinh con với liệt sỹ và thay liệt sỹ nuôi con đến tuổi trưởng thành được gia đình, tộc họ và UBND cấp xã xác nhận cũng được hưởng chế độ như đối với vợ liệt sỹ có chồng khác theo quy định tại Điểm d, Khoản 6, Điều 20, Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ về quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; đồng thời, xem xét cho vợ hoặc chồng của liệt sỹ có chồng hoặc có vợ khác không chăm sóc, phụng dưỡng bố mẹ liệt sỹ hoặc không nuôi con liệt sỹ (do bản thân người đó thoát ly hoạt động cách mạng, có trường hợp bị thương đưa ra miền Bắc điều trị nên không đủ điều kiện chăm sóc, phụng dưỡng bố mẹ hoặc nuôi con liệt sỹ) cũng được nhận trợ cấp tiền tuất; nếu vợ hoặc chồng của liệt sỹ có chồng hoặc có vợ khác mà người chồng hoặc người vợ khác cũng là liệt sỹ thì việc hưởng trợ cấp tiền tuất sẽ được áp dụng như thế nào, đề nghị Chính phủ xem xét, điều chỉnh, bổ sung phù hợp.

Trả lời:

a) Về chế độ đối với người có con với liệt sĩ nhưng không phải là vợ của liệt sĩ:

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng nghiên cứu trong quá trình sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh ưu đãi người có công hoặc xây dựng Luật Người có công với cách mạng.

b) Về chế độ đối với vợ liệt sĩ tái giá:

Dự kiến trong thời gian tới, nếu được Quốc hội giao trách nhiệm nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh ưu đãi người có công hoặc xây dựng Luật Người có công với cách mạng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội dự kiến sẽ đề xuất theo hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất để vợ liệt sĩ tái giá được hưởng chính sách ưu đãi của nhà nước.

c) Đối với vợ hoặc chồng liệt sĩ lấy chồng hoặc vợ khác cũng là liệt sĩ, nếu đủ điều kiện theo quy định vẫn được thực hiện chế độ ưu đãi.

57. Cử tri tỉnh Quảng Nam  kiến nghị: Đề nghị Bộ LĐTBXH kiến nghị hỗ trợ kinh phí nâng cấp Trung tâm nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công Quảng Nam.

Trả lời:

Bộ Lao động - Thương binh và  Xã hội đã bố trí nguồn kinh phí nâng cấp đầu tư Trung tâm nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công Quảng Nam.

58. Cử tri tỉnh Tiền Giang  kiến nghị:  Kiến nghị Bộ xem xét thực hiện đơn giản hóa thủ tục công nhận vợ liệt sĩ đối với các trường hợp không được gia đình liệt sĩ kê khai trong hồ sơ liệt sĩ nhưng được người dân biết và xác nhận (Cử tri tỉnh Tiền Giang – Kiến nghị số 41)

Trả lời:

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Thông tư số 16/2014/TT-BLĐTBXH ngày 30/7/2014 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đối với đề nghị bổ sung tình hình thân nhân là vợ liệt sĩ thì cần lập bản khai kèm một trong các giấy tờ làm căn cứ pháp lý chứng minh mối quan hệ với liệt sĩ: sổ hộ khẩu, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, trường hợp không có các loại giấy tờ trên thì sử dụng biên bản của gia đình hoặc họ tộc gửi Ủy ban nhân dân cấp xã để được xem xét, giải quyết theo thẩm quyền.

59. Cử tri tỉnh Quảng Bình  kiến nghị: Cử tri phản ánh, đa số Bà mẹ Việt Nam Anh hùng là những người sống độc thân không có người nuôi dưỡng, khi các mẹ qua đời chưa được xây dựng mộ chí; đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tham mưu Chính phủ có cơ chế, chính sách hỗ trợ kinh phí để xây mộ chí cho các mẹ.

Trả lời:

Trong số các đối tượng người có công thì liệt sĩ là người đã trực tiếp hy sinh bản thân vì Tổ quốc. Vì vậy, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng có những quy định riêng đối với liệt sĩ về lễ an táng, truy điệu; xây dựng, quản lý các công trình liệt sĩ, cùng với đó là chế độ thờ cúng liệt sĩ hàng năm.

Bà mẹ Việt Nam anh hùng cũng như các đối tượng người có công khác (cán bộ Lão thành cách mạng, cán bộ Tiền khởi nghĩa, Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng Lao động thời kỳ kháng chiến, thương binh,…) từ trần thì thân nhân được hưởng trợ cấp mai táng phí và trợ cấp một lần theo quy định hiện hành là phù hợp.

60. Cử tri tỉnh Cà Mau kiến nghị: Xem xét cho cha ruột, mẹ ruột, vợ, chồng, con thương binh được hưởng chính sách BHYT.

Trả lời:

Việc thực hiện các chế độ ưu đãi đối với người có công và thân nhân căn cứ điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.

Trước đây, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng số 26/2005/PL-UBTVQH11 ngày 29/6/2005 của Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ quy định việc Nhà nước mua bảo hiểm y tế đối với thân nhân thương binh, bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.

Đến Pháp lệnh số 04/2012/PL-UBTVQH13 ngày 16/7/2012 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã mở rộng đối tượng được Nhà nước mua bảo hiểm y tế. Theo đó thân nhân của thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên được Nhà nước mua bảo hiểm y tế.

Quy định như vậy là phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay và đảm bảo công bằng, tương xứng với quá trình, mức độ hy sinh, cống hiến giữa các đối tượng người có công.

61. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Đối với Nghị định số 31/2013/NĐ-CP, đề nghị nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung quy định cho con liệt sĩ bị bệnh tim mạch, ung thư được hưởng chế độ trợ cấp (hiện nay, con liệt sĩ bị bệnh tiểu đường đã được hưởng trợ cấp).

Trả lời:

Theo chính sách hiện hành, con liệt sĩ được hưởng chế độ trợ cấp nếu thuộc một trong các trường hợp sau:

- Con dưới 18 tuổi;

- Con từ đủ 18 tuổi trở lên nếu còn tiếp tục đi học;

- Con bị khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng từ nhỏ, sau khi đủ 18 tuổi nếu suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên;

- Con bị khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng sau khi đủ 18 tuổi nếu suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và không có thu nhập hàng tháng hoặc thu nhập hàng tháng thấp hơn 0,6 lần mức chuẩn.

Theo quy định trên, con liệt sĩ được hưởng chế độ trợ cấp không phân biệt có bị bệnh tim mạch, ung thư hay bị bệnh tiểu đường hay không.

62. Cử tri tỉnh Hậu Giang kiến nghị:  Đề nghị quan tâm hơn nữa đến chính sách cho đối tượng gia đình liệt sĩ, vừa qua, thực hiện chưa hợp lý; nếu hỗ trợ gia đình liệt sĩ khó khăn là 50 triệu đồng để xây nhà thì gia đình liệt sĩ khá hỗ trợ 40 triệu, gia đình liệt sĩ giàu hỗ trợ 30 triệu chứ không nên tập trung cấp cho gia đình khó khăn trước còn gia đình khá, giàu để xem xét sau và kiến nghị các trường hợp liệt sĩ không có vợ, con mà có thân nhân thờ cúng ngoài việc nhận tiền thờ cúng là 500.000 đồng nên hỗ trợ thêm thẻ bảo hiểm y tế và hỗ trợ tiền xây nhà cho thân nhân trực tiếp thờ cúng giống như liệt sĩ có vợ, con.

Trả lời:

a) Về hỗ trợ nhà ở cho gia đình liệt sĩ: đề nghị Ban Dân nguyện chuyển kiến nghị của cử tri đến Bộ Xây dựng để trả lời theo thẩm quyền.

b) Về chế độ bảo hiểm y tế và hỗ trợ nhà ở đối với người thờ cúng liệt sĩ: Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay chưa cho phép mở rộng đối tượng hưởng chế độ Bảo hiểm y tế và hỗ trợ xây nhà ở đối với đối tượng không phải là thân nhân liệt sĩ.

63. Cử tri tỉnh thành phố Hà Nội kiến nghị:Cử tri đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành chức năng bổ sung quy định định kỳ tổ chức khám bệnh cho đối tượng là thương binh, để có cơ sở làm thủ tục đề xuất lên hạng, nhằm đảm bảo chế độ đãi ngộ đối với đối tượng này.

Trả lời:

Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế, người có công được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 100% chi phí khám, chữa bệnh. Việc khám, chữa bệnh, kiểm tra sức khỏe vào thời gian nào trong năm do người có công lựa chọn. Nếu thương binh có vết thương tái phát và được kết luận trong quá trình khám, chữa bệnh thì được xem xét, giám định lại thương tật theo quy định tại Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ. Do vậy, không nhất thiết phải quy định tổ chức khám bệnh định kỳ cho đối tượng là thương binh.

64. Cử tri tỉnh Bạc Liêu kiến nghị: Cử tri đề nghị Nhà nước cần có những quy định cụ thể về chính sách di dời chế độ mộ liệt sĩ, vì hiện nay đối với các phần mộ liệt sĩ tại nghĩa trang thì được ốp đá hoa cương còn mộ liệt sĩ được di dời về nơi cư trú (thân nhân liệt sĩ) thì không có chế độ ốp đá hoa cương.

Trả lời:

Phần mộ liệt sĩ tại nghĩa trang dòng họ do gia đình quản lý (không đưa vào nghĩa trang liệt sĩ) được hỗ trợ kinh phí 2.500.000 đồng để xây vỏ mộ (cả bia). Việc xây mộ theo quy cách nào là do gia đình liệt sĩ quyết định, phù hợp với nguyện vọng của gia đình và phong tục tập quán của địa phương.

65. Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị: Cử tri cho rằng, thương binh, bệnh binh bị mất sức lao động từ 61% trở lên khi từ trần thì thân nhân được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng. Trong khi đó, thương binh, bệnh binh bị mất sức lao động dưới 61% khi từ trần thì thân nhân không được hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng. Quy định như vậy chưa công bằng...

Trả lời:

Việc thực hiện các chế độ ưu đãi đối với người có công và thân nhân cần phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội của đất nước và công lao đóng góp của người có công. Điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay chưa cho phép mở rộng trợ cấp tiền tuất hàng tháng đối với thân nhân của thương binh, bệnh binh mất sức lao động dưới 61% từ trần.

66. Cử tri tỉnh Ninh Thuận  kiến nghị: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội sớm xem xét cấp bằng Tổ quốc ghi công cho 05 trường hợp theo Công văn số 621/UBND-VX ngày 09/02/2015 của UBND tỉnh Ninh Thuận.

Trả lời:

Sau khi nhận được văn bản số 621/UBND-VX ngày 09/02/2015 của UBND tỉnh Ninh Thuận, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ cấp Bằng Tổ quốc ghi công đối với 04 trường hợp (ông Nguyễn Khoách, ông Thái Văn Hiển, ông Nguyễn Thành Hưng, ông Trần Xuân Chính).

Riêng trường hợp ông Phạm Sinh hồ sơ thể hiện là cán bộ đi B mất tin (chưa rõ tin tức) nhưng hiện chưa có Phiếu xác minh của cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy chưa đủ cơ sở để Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trình Thủ tướng Chính phủ cấp Bằng Tổ quốc ghi công đối với ông Phạm Sinh (Cục Người có công đã có văn bản số 1191/NCC-CS1 ngày 30/6/2016 gửi Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Ninh Thuận đề nghị bổ sung hồ sơ theo quy định).

67. Cử tri tỉnh Ninh Thuận  kiến nghị: Đề nghị cương quyết xử lý các trường hợp lợi dụng chính sách, làm giả hồ sơ để hưởng chế độ cho người có công.

Trả lời:

Trong thời gian qua, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng và địa phương tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý các trường hợp làm giả hồ sơ, nhờ vậy đã hạn chế, ngăn chặn được tình trạng này trên thực tế.

Tiếp thu ý kiến của cử tri, thời gian tới, việc thanh tra, kiểm tra thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng sẽ được đẩy mạnh.

68. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Đề nghị xem xét sửa đổi thông tư liên tịch số 06/TTLT-BLĐTBXH-BTCTW, theo đó mở rộng đối tượng, tiêu chuẩn cán bộ Tiền khởi nghĩa đối với người làm cấp phó và cán bộ khởi nghĩa lâm thời, đây là đội ngũ cán bộ có nhiều đóng góp trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền đất nước.

Trả lời:

Việc mở rộng điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận đối tượng người hoạt động trước cách mạng cần được Ban Tổ chức Trung ương nghiên cứu, báo cáo cơ quan có thẩm quyền. Do vậy, đề nghị Ban Dân nguyện chuyển kiến nghị trên đến Ban Tổ chức Trung ương để xem xét.

69. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị:  Đề nghị quan tâm có chính sách hỗ trợ tiền xây lăng, mộ đối với những người là đảng viên tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

   Trả lời:

Đây là vấn đề liên quan đến chính sách đảng viên, đề nghị Ban Dân nguyện chuyển kiến nghị của cử tri đến Ban Tổ chức Trung ương để xem xét, trả lời.    

70. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Theo quy định tại khoản 1, Điều 2 của Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22/5/2013 có quy định: Người con là liệt sĩ là người đã được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng Tổ quốc ghi công bao gồm con đẻ, con nuôi theo quy định của pháp luật. Vậy với người có công nuôi cháu nuôi được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng Tổ quốc ghi công thì có được công nhận là Bà mẹ Việt Nam anh hùng không? Đề nghị xem xét, bổ sung cho phù hợp.

Trả lời:

Đề nghị Ban Dân nguyện chuyển câu hỏi của cử tri đến Bộ Quốc phòng là cơ quan chủ trì trình Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22/5/2013 của Chính phủ để trả lời theo thẩm quyền.

71. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Để đảm bảo đồng bộ và phù hợp, đề nghị sủa đổi bổ sung điểm h, khoản 1, Điều 33 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP như sau: h) mắc bệnh do một trong các trường hợp quy định tại các điểm a,b,c,d khoản này đã xuất ngũ mà bệnh cũ tái phát thực tế dẫn đến ảnh hưởng sức khỏe, sinh hoạt và cuộc sống; Đồng thời đề nghị sửa đổi lại khoản 2, Điều 15 Thông tư số 202/2013/TT-BQP ngày 7/11/2013 của Bộ Quốc phòng như sau: 2. Đối với quân nhân đã xuất ngũ bị bệnh cũ tái phát thực tế dẫn đến ảnh hưởng sức khỏe, sinh hoạt và cuộc sống quy định tại điểm h khoản 1 Điều 33 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP .

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 23 Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng: Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh khi thực hiện nhiệm vụ thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b và đ khoản 1 Điều này đã xuất ngũ về gia đình, nay bị rối loạn tâm thần có liên quan đến bệnh cũ làm suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.

Như vậy, việc xác nhận và giải quyết chế độ bệnh binh đã được quy định trong Pháp lệnh và Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ và phù hợp với thời điểm hiện nay.

Về việc sửa đổi lại khoản 2, Điều 15 Thông tư số 202/2013/TT-BQP ngày 7/11/2013 của Bộ Quốc phòng, đề nghị Ban Dân nguyện chuyển kiến nghị của cử tri đến Bộ Quốc phòng để trả lời theo thẩm quyền.

72. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:  Đề nghị bổ sung quy định về việc người được giao trực tiếp thờ cúng liệt sĩ nếu không phải là thân nhân liệt sĩ thì được Nhà nước mua bảo hiểm y tế .

Trả lời:

   Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng chỉ quy định thân nhân liệt sĩ, bao gồm: cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con, người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ là những người có quan hệ nuôi dưỡng trực tiếp với liệt sĩ được Nhà nước mua Bảo hiểm y tế.

Điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay chưa cho phép mở rộng đối tượng hưởng chế độ Bảo hiểm y tế và hỗ trợ xây nhà ở đối với đối tượng không phải là thân nhân liệt sĩ.

73. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:  Đề nghị xem xét chỉ đạo thống nhất các địa phương việc xác định danh sách các liệt sĩ đã hy sinh nhưng chưa tìm được hài cốt để tiến hành lập mộ tượng trưng thực hiện thờ cúng cho các vị này để người thân của họ được an ủi phần nào, và cũng để tiếp tục thực hiện tốt công tác đền ơn đáp nghĩa cho những người có công với cách mạng.

Trả lời:

Hiện nay, việc tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ vẫn đang được Bộ Quốc phòng tiến hành, vì vậy chưa nên đặt vấn đề xây mộ vọng trong nghĩa trang liệt sĩ đối với các liệt sĩ chưa tìm thấy hài cốt.

74. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:  Kiến nghị Bộ xem xét tham mưu với Thủ tướng Chính phủ xem xét, điều chỉnh Quyết định số 24/2016/QĐ-TTg ngày 14/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ về trợ cấp một lần đối với người có thành tích tham gia kháng chiến được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Bằng khen của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng cho phép người trực tiếp thờ cúng những người được nhận Bằng khen này đã từ trần được hưởng phần trợ cấp một lần. Bởi, những đối tượng quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 2 của Quyết định này đã già yếu và đã từ trần rất nhiều, nhiều trường hợp không còn thân nhân theo quy định.

Trả lời:

Việc thực hiện chế độ trợ cấp 1 lần đối với người có thành tích tham gia kháng chiến được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Bằng khen của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh với mục đích chủ yếu để thực hiện chế độ đối với người trực tiếp có thành tích được khen thưởng. Trường hợp người có thành tích đã từ trần thì giải quyết chế độ đối với thân nhân theo quy định Quyết định số 24/2016/QĐ-TTg ngày 14/06/2016 của Thủ tướng Chính phủ. Quy định như trên là phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay.

75. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị:  Kiến nghị xem xét nâng mức tặng quà của Chủ tịch nước cho các đối tượng có công với cách mạng nhân dịp Kỷ niệm Ngày Thương Binh liệt sĩ và Tết Nguyên đán từ 400.000 đồng lên 500.000 đồng cho các đối tượng ở mức I và từ 200.000 đồng lên 250.000 đồng cho các đối tượng ở mức II. Vì hiện nay, vật giá các lọai đang tăng cao, tuy mức tăng đề xuất không nhiều, nhưng cũng là một sự quan tâm của Chủ tịch nước đến với các gia đình của người có công với cách mạng trong giai đoạn hiện nay.

Trả lời:

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin ghi nhận kiến nghị của cử tri để nghiên cứu, báo cáo Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch nước xem xét, quyết định.

76. Cử tri tỉnh Bạc Liêu kiến nghị:  Cử tri phản ảnh hiện nay điều kiện để làm thủ tục đề nghị cho người dân được hưởng chế độ chất độc da cam là phải có Huân chương kháng chiến chống Mỹ. Nhưng đối với những người đã đề nghị và được cấp Huân chương từ năm 1999 trở về trước thì được hưởng, còn những người do điều kiện khách quan đề nghị sau năm 1999 thì không được hưởng. Đề nghị Quốc hội có ý kiến.

Trả lời:

Hồ sơ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, hồ sơ khen thưởng tổng kết thành tích tham gia kháng chiến không quy định về thời gian xác lập. Do vậy, trường hợp hồ sơ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, hồ sơ khen thưởng tổng kết thành tích tham gia kháng chiến lập sau ngày 01/01/2000 vẫn được coi là một trong các căn cứ chứng minh thời gian tham gia kháng chiến để xác lập hồ sơ xem xét, giải quyết chế độ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.

77. Cử tri tỉnh Nam Định kiến nghị: Đề nghị Chính phủ quan tâm xem xét tới những cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ tại các vùng nhiễm chất độc da cam sau năm 1975 vì hiện nay có cán bộ, chiến sĩ hoạt động, làm việc tại những khu vực đó sau năm 1975 đã mắc phải các bệnh liên quan đến chất độc da cam đi-ô-xin.

Trả lời:

Tại Điều 39 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ đã quy định rõ về thời gian và vùng quân đội Mỹ sử dung chất độc hóa học trong chiến tranh ở Việt Nam làm căn cứ để xác nhận đối tượng người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.

Việc mở rộng thời gian và không gian để làm căn cứ xác nhận cần được các cơ quan chức năng (Bộ Quốc phòng, Bộ Tài nguyên Môi trường) nghiên cứu, báo cáo cụ thể với Chính phủ, Quốc hội trong quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (hoặc xây dựng Luật Người có công với cách mạng).

78. Cử tri tỉnh Ninh Bình kiến nghị: Về chế độ đối với người hoạt động kháng chiến (HĐKC) bị nhiễm chất độc hóa học (CĐHH). Cử tri đề nghị:

- Bổ sung 01 xuất trợ cấp người phục vụ đối với những gia đình có từ 02 con đẻ trở lên bị dị dạng, dị tật nặng không còn khả năng tự phục vụ cho bản thân.

- Đối với những trường hợp con người HĐKC bị dị dạng, dị tật (nhất là bị bệnh tâm thần) đang hưởng trợ cấp mức II là 790.000đ (trước đây không qua giám định) nay do bệnh, tật tăng lên quá nặng, hoàn cảnh gia đình khó khăn không có người chăm sóc. Đề nghị được giám định y khoa, nâng lên hưởng trợ cấp mức I (1,4 triệu đồng) để đưa vào nuôi dưỡng tập trung tại các trung tâm BTXH (vì hiện nay mức trợ cấp cho các đối tượng xã hội nuôi dưỡng tập trung đã được nâng lên bằng mức lương cơ sở chung là 1.210.000đ), như vậy mới đủ kinh phi nuôi dưỡng đối tượng.

- Sớm ban hành danh mục con của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học để có cơ sở xem xét giải quyết chế độ.

Trả lời:

a) Về kiến nghị bổ sung 01 suất trợ cấp người phục vụ đối với những gia đình có từ 02 con đẻ trở lên bị dị dạng, dị tật nặng không còn khả năng phục vụ cho bản thân.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng đề xuất cụ thể trong quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (hoặc xây dựng Luật Người có công với cách mạng).

b) Đối với trường hợp con đẻ bị dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học mắc bệnh tâm thần nặng, gia đình không có người chăm sóc thì được xem xét tiếp nhận vào Trung tâm bảo trợ xã hội hoặc các cơ sở nuôi dưỡng người có công của Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội.

c) Về Danh mục dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học của con đẻ của người hoạt động kháng chiến đã được Liên Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành tại Thông tư liên tịch số 20/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 30/6/2016.

79. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Có ý kiến cho rằng chế độ chính sách đối với người bị nhiễm chất độc da cam trong thời gian qua tăng, giảm thường xuyên gây bất lợi cho người dân. Cử tri đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội giải thích cho cử tri rõ.

Trả lời:

Trong thời gian qua, chính sách đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học luôn được sửa đổi, bổ sung kịp thời để hoàn thiện. Theo đó, người hoạt động kháng chiến ngày càng được thụ hưởng chính sách đầy đủ hơn, mức trợ cấp cao hơn, đời sống được nâng lên (bổ sung thêm phụ cấp, trợ cấp người phục vụ, chế độ điều dưỡng, chế độ quà ngày lễ tết, trợ cấp tiền tuất hàng tháng cho thân nhân, ưu đãi về giáo dục cho con đẻ… có đầy đủ quyền lợi như đối với thương binh, bệnh binh). Điều kiện xác nhận đối tượng được mở rộng bằng cách bổ sung quy định về giấy tờ chứng minh địa bàn hoạt động ở vùng Mỹ sử dụng chất độc hóa học (Thông tư số 16/2014/TT-BLĐTBXH mở rộng quy định về giấy tờ vùng miền, Công văn số 9243/BQP-CT ngày 31/10/2014 về xác nhận phiên hiệu ký hiệu đơn vị làm căn cứ chứng minh địa bàn ở vùng Mỹ sử dụng chất độc hóa học làm căn cứ giải quyết chế độ). Trình tự thủ tục hồ sơ được đơn giản gọn nhẹ theo quy định của cải cách thủ tục hành chính của Chính phủ. Việc khám giám định bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học căn cứ quy định tại Thông tư liên tịch số 20/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 30/6/2016 của liên Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Những sửa đổi, bổ sung kịp thời về chính sách thời gian qua nhằm đảm bảo quyền lợi của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.

80. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị:  Cử tri tiếp tục đề nghị cần có những chính sách phù hợp để những người tham gia kháng chiến trong vùng Mỹ rải chất độc hóa học được hưởng chế độ da cam nhằm đảm bảo công bằng giữa các trường hợp cùng đơn vị, cùng vùng hoạt động, nhưng có người được hưởng trước, người không được hưởng. Vì theo Thông tư liên tịch số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH về việc “hướng dẫn giám định bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm chất độc hóa học đối với người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ” quy định người được hưởng chính sách phải nằm trong danh mục 17 nhóm bệnh, phần lớn là bệnh ung thư. Cử tri đề nghị Bộ lao động - Thương binh và Xã hội xem xét sửa đổi theo hướng đối tượng trực tiếp hoạt động kháng chiến tại vùng Mỹ rải chất độc hóa học thì được hưởng chế độ da cam.

Trả lời:

Chính sách đối với người bị nhiễm chất độc hóa học chỉ áp dụng đối với những người có tham gia kháng chiến trong vùng bị địch rải chất độc hóa học nhưng phải được cơ quan y tế khám và kết luận có mắc một trong 17 loại bệnh, tật thuộc danh mục Bộ Y tế quy định.

Do vậy những trường hợp không mắc bệnh, tật theo quy định của Bộ Y tế thì không thuộc diện hưởng chế độ này.

81. Cử tri thành phố Đã Nẵng kiến nghị: Cử tri đề nghị xem xét giải quyết chế độ trợ cấp đối với lực lượng thanh niên xung phong tham gia chiến đấu, khi nghỉ công tác không đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí, nhằm bù đắp phần nào công sức đóng góp của đối tượng này.

Trả lời:

Thanh niên xung phong tập trung tham gia kháng chiến trong thời gian từ ngày 15/7/1950 đến ngày 30/4/1975 đã hoàn thành nhiệm vụ trở về địa phương mà không thuộc diện hưởng chế độ hưu trí thì được hưởng trợ cấp một lần theo số năm thực tế trực tiếp tham gia kháng chiến, trường hợp không còn khả năng lao động và sống cô đơn, không nơi nương tựa thì được xét trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 104/1999/QĐ-TTg ngày 14/4/1999; Quyết định số 40/2011/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ (hiện nay mức trợ cấp là 540.000 đồng/tháng).

82. Cử tri thành phố Đã Nẵng kiến nghị: Cử tri phản ảnh, Khoản 1, Điều 39 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2013 quy định về điều kiện xác nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học phải là người “đã công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu từ ngày 01/8/1961 đến 30/4/1975 tại các vùng mà quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hóa học ở chiến trường B, C, K (kể cả 10 xã: Vĩnh Quang, Vĩnh Giang, Vĩnh Tân, Vĩnh Thành, Vĩnh Ô, Vĩnh Khê, Vĩnh Hà, Vĩnh Lâm, Vĩnh Sơn và Vĩnh Thủy thuộc huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị)” là chưa phù hợp. Đề nghị điều chỉnh lại vấn đề này cho phù hợp, tránh tình trạng bỏ sót đối tượng được hưởng chính sách.

Trả lời:

Tại Điều 39 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ đã quy định rõ về thời gian và vùng quân đội Mỹ sử dung chất độc hóa học trong chiến tranh ở Việt Nam làm căn cứ để xác nhận đối tượng người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.

Việc mở rộng thời gian và không gian để làm căn cứ xác nhận cần được các cơ quan chức năng (Bộ Quốc phòng, Bộ Tài nguyên Môi trường) nghiên cứu, báo cáo chi tiết với Chính phủ, Quốc hội trong quá trình nghiên cứu xây dựng Luật ưu đãi người có công

83. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri kiến nghị các cơ quan chức năng trung ương xem xét, căn cứ vào lý lịch cán bộ, đảng viên và hồ sơ quản lý của cơ quan, đơn vị cũ chứng minh có thời gian hoạt động để kịp thời xem xét, giải quyết làm hồ sơ hưởng chế độ bị nhiễm chất độc da cam cho các đối tượng trực tiếp tham gia chiến tranh chống Mỹ cứu nước hoạt động ở những khu vực, địa phương được công bố Mỹ rãi chất độc đioxin.

Trả lời:

Theo quy định hiện hành, lý lịch cán bộ, đảng viên và hồ sơ quản lý của cơ quan, đơn vị cũ chứng minh có thời gian hoạt động kháng chiến ở vùng được công bố Mỹ rải chất độc dioxin được coi là một trong những căn cứ để xác nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.

84. Cử tri tỉnh Vĩnh Phúc kiến nghị: Đối với những người có nhiều năm công tác hoặc tham gia phục vụ chiến đấu (không trực tiếp tham gia chiến đấu) tại những vùng bị ô nhiễm nặng bởi chất độc da cam đioxin đề nghị được hưởng chế độ, chính sách như những người trực tiếp tham gia chiến đấu.

Trả lời:

Điều 38, Điều 39 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ đã quy định rõ về đối tượng và điều kiện xác nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học. Theo đó, không có sự phân biệt giữa người trực tiếp tham gia chiến đấu và người có thời gian công tác, phục vụ chiến đấu tại vùng quân đội Mỹ sử dụng chất độc hóa học; mọi trường hợp đủ điều kiện theo quy định trên đều được hưởng chế độ ưu đãi.

85. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Cử tri phản ánh, sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thực hiện chủ trương của Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên đã thành lập các Sư đoàn thanh niên xung phong thực hiện nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng phát triển kinh tế - xã hội; trong đó có Sư đoàn xây dựng công trình Đại Thủy nông Nam sông Thạch Hãn. Lực lượng này đã có những đóng góp, hy sinh to lớn cho sự nghiệp cách mạng. Đến nay, nhiều người đã chết, số còn lại tuổi cũng đã cao, sức yếu. Địa phương cũng đã xác nhận phiên hiệu đơn vị thanh niên xung phong; các cấp Hội địa phương cũng đã thực hiện việc cấp Thẻ hội viên cho họ; tuy vậy, họ vẫn chưa được hưởng chế độ gì của nhà nước. Đề nghị Chính phủ quan tâm chế độ để họ khỏi bị thiệt thòi.

Trả lời:

Đề nghị Ban Dân nguyện chuyển kiến nghị của cử tri đến Bộ Nội vụ là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về Thanh niên xung phong để trả lời theo thẩm quyền.

86. Cử tri tỉnh Thái Nguyên  kiến nghị: Xem xét bổ sung đối tượng hưu trí được hưởng chính sách dân công hỏa tuyến tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ Quốc tế.

Trả lời:

Đề nghị Ban Dân nguyện chuyển kiến nghị của cử tri đến Bộ Quốc phòng (là cơ quan chủ trì trình Chính phủ ban hành Quyết định số 49/2015/QĐ-TTg về một số chế độ, chính sách đối với dân công hỏa tuyến tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế) để trả lời theo thẩm quyền.

87. Cử tri tỉnh Quảng Nam  kiến nghị: Quan tâm có chế độ chính sách ưu đãi cho những người lực lượng Thanh niên xung phong để bù đắp phần nào sự hy sinh, cống hiến của họ trong công cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trả lời:

Từ năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 104/1999/QĐ-TTg ngày 14/4/1999 về một số chính sách đối với thanh niên xung phong đã hoàn thành nhiệm vụ trong kháng chiến, hiện được thay thế bằng Quyết định số 40/2011/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ.

Đối với thanh niên xung phong tham gia chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế sau ngày 30/4/1975 thì được xem xét, hưởng chế độ theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ.

Như vậy, chế độ ưu đãi đối với thanh niên xung phong đã hoàn thành nhiệm vụ trong kháng chiến giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được thực hiện xuyên suốt từ năm 1999 đến nay, thể hiện sự quan tâm, chăm lo của Đảng và Nhà nước đối với lực lượng này.

88. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri phản ảnh, theo Điều 23, Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15 tháng 5 năm 2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn về lập thủ tục hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân thì: Hồ sơ, thủ tục giải quyết chế độ đối với thương binh đồng thời là người hưởng chế độ mất sức lao động có một trong các giấy tờ, đó là: “Quyết định nghỉ việc hưởng chế độ mất sức lao động có xác nhận thời gian công tác thực tế từ 20 năm trở lên hoặc chưa đủ 20 năm công tác thực tế nhưng có đủ 15 năm công tác liên tục trong quân đội, công an”. Cử tri cho rằng, quy định này gây thiệt thòi cho những người không đủ thời gian nêu trên dù chỉ một vài ngày. Do đó, cử tri đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xem xét, điều chỉnh theo hướng có lợi hơn cho những người không đủ thời gian được hưởng cả 02 chế độ thương binh và mất sức .

Trả lời:

Việc quy định mức thời gian công tác như trên để thống nhất thực hiện cho tất cả mọi đối tượng. Do vậy, không đặt vấn đề giải quyết chế độ đối với những người không đủ điều kiện về thời gian công tác nhằm đảm bảo công bằng giữa các đối tượng.

89. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri phản ảnh, trước đây những người tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến và Huy chương kháng chiến thì được hưởng chế độ nghỉ dưỡng hàng năm. Nhưng hiện nay thì chỉ có những người được tặng thưởng Huân chương kháng chiến mới được hưởng chế độ nghỉ dưỡng. Cử tri đề nghị Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội xem xét lại quy định này. Đồng thời, đề nghị cân nhắc bổ sung quy định trợ cấp hàng tháng cho đối tượng được tặng thưởng Huy chương kháng chiến .

Trả lời:

Trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay chưa cho phép bổ sung chế độ trợ cấp hàng tháng và điều dưỡng hàng năm đối với người được tặng Huy chương kháng chiến.

90. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri phản ảnh, tại Điều 49 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2013 quy định hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế thì hồ sơ gồm giấy tờ chứng minh đã được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huân chương chiến thắng, Huy chương kháng chiến hoặc Huy chương chiến thắng; quyết định trợ cấp một lần của Giám đốc Sở Lao động- Thương binh và Xã hội. Cử tri đề nghị, cần xem xét lại quy định này, vì sau năm 1975 chỉ cấp Huân - Huy chương chiến công chứ không có Huân - Huy chương kháng chiến và họ không bao giờ có Quyết định trợ cấp một lần của Giám đốc Sở Lao động- Thương binh và Xã hội; đồng thời, theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ thì do Công an, Quân đội cấp. Rõ ràng quy định này là không rõ ràng, không khả thi, gây khó khăn cho người thụ hưởng. Đề nghị Bộ, ngành xem xét sửa đổi, bổ sung quy định cho phù hợp.

Trả lời:

Kiến nghị của cử tri không rõ nội dung nên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chưa có cơ sở trả lời.

91. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri kiến nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nghiên cứu sớm có giải pháp giải quyết một số vấn đề còn tồn đọng đối với thanh niên xung phong về những hồ sơ xác nhận liệt sĩ, người hưởng chính sách như thương binh, chế độ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học chưa được giải quyết; nâng mức trợ cấp hàng tháng đối với thanh niên xung phong không còn khả năng lao động, sống cô đơn, không nơi nương tựa và giải quyết trợ cấp hàng tháng đối với trường hợp thanh niên xung phong đã hưởng trợ cấp một lần. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xem xét, trình Chính phủ có chính sách hỗ trợ về nhà ở cho thanh niên xung phong đã hoàn thành nhiệm vụ trong kháng chiến đang gặp khó khăn về nhà ở .

Trả lời:

a) Về việc xác nhận liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh nói chung và thanh niên xung phong nói riêng, đối với những trường hợp hiện nay không còn hồ sơ gốc, thủ tục xác nhận thực hiện theo Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BLĐTBXH-BQP.

Đối với những trường hợp không còn căn cứ để thực hiện theo Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BLĐTBXH-BQP, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hiện đang chỉ đạo giải quyết hồ sơ người có công tồn đọng thí điểm tại 05 tỉnh, thành phố: Bắc Kạn, Lai Châu, Thái Bình, Long An và thành phố Đà Nẵng. Dự kiến, trong quý I/2017 sẽ sơ kết, rút kinh nghiệm và tiếp tục triển khai ở các địa phương còn lại.

b) Về kiến nghị nâng mức trợ cấp đối với Thanh niên xung phong

Ngày 05/7/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 29/2016/QĐ-TTg điều chỉnh mức trợ cấp hàng tháng đối với Thanh niên xung phong đã hoàn thành nhiệm vụ trong kháng chiến, theo đó điều chỉnh mức trợ cấp từ 360.000 đồng/tháng lên 540.000 đồng/tháng kể từ ngày 01/01/2016.

c) Về việc bổ sung trợ cấp hàng tháng và hỗ trợ về nhà ở đối với Thanh niên xung phong: đề nghị Ban Dân nguyện chuyển kiến nghị cử tri đến Bộ Nội vụ để trả lời theo thẩm quyền.

92. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Hiện nay, số người tham gia kháng chiến trước năm 1975, sau giải phóng về tiếp tục tham gia công tác, khi hết tuổi lao động chỉ được hưởng chính sách nghỉ hưu hoặc nghỉ 1 lần, thời gian tham gia kháng chiến trước năm 1975 không được tính. Đề nghị Chính phủ xem xét cho những người này được hưởng chính sách người có công cho thời gian tham gia kháng chiến trước năm 1975.

Trả lời:

Các đối tượng có thời gian tham gia kháng chiến trước năm 1975 nếu được tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến thì được hưởng ưu đãi theo quy định của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng.

Trường hợp chưa được tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến, đề nghị liên hệ Sở Nội vụ để được hướng dẫn cụ thể.

93. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Cử tri kiến nghị Chính phủ nghiên cứu ban hành chính sách đặc thù về chế độ khám, chữa bệnh cho cán bộ, chiến sỹ, thanh niên xung phong tham gia chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước.

Trả lời:

Việc khám, chữa bệnh do cơ quan y tế thuộc Bộ Y tế thực hiện. Đề nghị Ban Dân nguyện chuyển kiến nghị của cử tri đến Bộ Y tế để trả lời theo thẩm quyền.

94. Cử tri tỉnh Hà Nam kiến nghị: Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều quan tâm ban hành các chính sách ưu đãi đối với người có công, người tham gia cách mạng. Những người tham gia chiến đấu hoặc trực tiếp chiến đấu trong chiến trường miền Nam từ 3 năm trở lên được Chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam thưởng Huân chương chiến sĩ giải phóng nhưng hiện nay người được thưởng Huân chương này không có chế độ gì. Đề nghị Nhà nước giải quyết tồn đọng về chế độ cho người tham gia kháng chiến, cho người được cấp bằng khen thì được cấp thẻ bảo hiểm y tế vì những đối tượng đó đều có thời gian tham gia như nhau do thất lạc hồ sơ hoặc do đi làm ăn xa nên không được cấp Huân huy chương và thẻ bảo hiểm y tế đợt đầu.

Trả lời:

a) Về chế độ đối với người được khen tặng Huân chương chiến sĩ giải phóng: Đề nghị Ban Dân nguyện chuyển kiến nghị của cử tri đến Bộ Quốc phòng để trả lời theo thẩm quyền.

b) Về việc cấp thẻ Bảo hiểm Y tế đối với người được tặng Bằng khen vì thành tích tham gia kháng chiến:

 Việc thực hiện các chế độ ưu đãi đối với người có công cần phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội của đất nước và công lao đóng góp của từng đối tượng. Điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay chưa cho phép thực hiện chế độ Bảo hiểm y tế đối với những người được tặng Bằng khen vì thành tích tham gia kháng chiến.

95. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trình Chính phủ bổ sung nhóm đối tượng thuộc lực lượng chủ lực giao thông trong kháng chiến chống Mỹ (đây là lực lượng đặc thù của tỉnh Hà Tĩnh) vào nhóm đối tượng được hưởng chính sách như đối tượng Dân công hỏa tuyến và Thanh niên xung phong.

Trả lời:

   Đề nghị Ban Dân nguyện chuyển kiến nghị của cử tri đến Bộ Quốc phòng (là cơ quan chủ trì trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 49/2015/QĐ-TTg ngày 14/10/2015 về một số chế độ, chính sách đối với dân công hỏa tuyến tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế) để được xem xét trả lời theo thẩm quyền.

96. Cử tri tỉnh Ninh Bình kiến nghị: Hiện nay, trường hợp thân nhân liệt sỹ đã được giải quyết chế độ ưu đãi trước ngày 01/01/1995 nhưng chưa được cấp Bằng Tổ quốc ghi công theo qui định tại Điều 13, Thông tư số 16/2014/TT-BLĐTBXH ngày 30/7/2014 của Bộ Lao động TBXH, đang vướng mắc 2 khâu là:

   Một là, quy định “cơ quan có thẩm quyền cấp giấy báo tử” chưa có hướng dẫn cụ thể là cơ quan nào. Đề nghị Bộ Quốc phòng và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có văn bản hướng dẫn để các địa phương thực hiện (Hiện nay tỉnh Ninh Bình còn tồn đọng gần 300 trường hợp đã có đơn đề nghị nhưng chưa giải quyết được).

Hai là, theo yêu cầu của Cục người có công, Bộ Lao động TBXH quy định Hồ sơ đề nghị cấp Bằng Tổ quốc ghi công cho những trường hợp này phải kèm theo giấy tờ chứng minh thân nhân liệt sỹ đã được giải quyết chế độ ưu đãi trước ngày 01/01/1995 là rất khó khăn vì nhiều trường hợp không còn lưu giữ được. Cử tri đề nghị Nhà nước quan tâm xem xét thủ tục hành chính phù hợp để giải quyết cấp Bằng “Tổ quốc ghi công” cho đối tượng này.

Trả lời:

a) Về thẩm quyền cấp Giấy báo tử: 

Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy báo tử đã được quy định cụ thể tại Điều 18 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ.

b) Những trường hợp không có căn cứ chứng minh thân nhân đã hưởng chế độ ưu đãi trước ngày 01/01/1995 làm cơ sở cấp Bằng Tổ quốc ghi công, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với Bộ Quốc phòng nghiên cứu hướng giải quyết cụ thể.

97. Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Kiến nghị số 85: Hiện chưa có chế độ chính sách đối với những người dân đã có công giúp đỡ cách mạng trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc như làm giao liên, vận chuyển lương thực cho bộ đội. Cử tri đề nghị Chính phủ nghiên cứu, có chính sách hỗ trợ đối với đối tượng này.

Trả lời:

Người dân có thành tích tham gia giúp đỡ cách mạng trong hai cuộc kháng chiến đã được Nhà nước khen thưởng bằng các hình thức: tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công”, “Bằng có công với nước”, Huân chương, Huy chương kháng chiến được giải quyết chế độ đối với người có công giúp đỡ cách mạng theo quy định tại Điều 32, Điều 33 Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng.

Những người được tặng Bằng khen vì thành tích tham gia kháng chiến thì cũng được hưởng chế độ theo Quyết định số 24/2016/QĐ-TTg ngày 14/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ.

Việc lập hồ sơ đề nghị khen thưởng thành tích tham gia kháng chiến, đề nghị liên hệ Sở Nội vụ để được hướng dẫn cụ thể.

98. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Về chế độ huân, huy chương: Theo quy định tại Điều 49 Nghị định 31/2013/NĐ-CP thì người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ Quốc tế “được khen tặng Huân chương Kháng chiến hoặc Huân chương Chiến thắng, Huy chương Kháng chiến hoặc Huy chương Chiến thắng” thì được “trợ cấp một lần”. Trong khi tại Điều 51 quy định: “Người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Huân chương kháng chiến; người có công giúp đỡ cách mạng trong gia đình được tặng Huân chương kháng chiến được hưởng trợ cấp hàng tháng. Trường hợp sống cô đơn không nơi nương tựa được hưởng thêm trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng bằng 0,8 lần mức chuẩn”. Cử tri đề nghị Bộ LĐ-TB&XH xem xét, trình Chính phủ cho phép người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ Quốc tế được khen tặng Huân chương Kháng chiến hoặc Huân chương Chiến thắng, Huy chương Kháng chiến hoặc Huy chương Chiến thắng được hưởng trợ cấp hàng tháng để đảm bảo tính công bằng, xứng đáng với những đóng góp của họ và giảm bớt khó khăn trong cuộc sống.

Trả lời:

Các chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân của họ được xây dựng trên nguyên tắc phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và công lao cống hiến của từng đối tượng, đảm bảo công bằng giữa các đối tượng thụ hưởng chính sách và được quy định tại Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng.

Về thực tế, đối với người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế được tặng Huân, Huy chương kháng chiến, ngoài trợ cấp một lần hưởng ưu đãi theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, thì với thời gian tham gia hoạt động kháng chiến này còn được hưởng một số chế độ khác như: trợ cấp hưu trí, phục viên, mất sức lao động, bệnh binh… Còn đối tượng người có công giúp đỡ cách mạng là người có thành tích giúp đỡ cách mạng trong lúc khó khăn, nguy hiểm chỉ được hưởng một chế độ ưu đãi người có công giúp đỡ cách mạng.

Vì vậy, quy định chế độ trợ cấp một lần đối với người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế được tặng Huân, Huy chương kháng chiến hưởng trợ cấp một lần và chế độ trợ cấp hàng tháng đối với người có công giúp đỡ cách mạng hưởng trợ cấp hàng tháng như hiện nay là phù hợp.

99. Cử tri tỉnh Vĩnh Phúc kiến nghị: Cử tri phản ánh hiện nay thủ tục giám định sức khoẻ để xét hưởng chế độ cho người có công là quá phức tạp, nhiều người chưa làm xong quy trình thì đã mất, đề nghị nhà nước điều chỉnh.

Trả lời:

Thủ tục khám, giám định sức khỏe do cơ quan y tế quy định và thực hiện. Đề nghị Ban Dân nguyện chuyển kiến nghị của cử tri đến Bộ Y tế để trả lời theo thẩm quyền.

100. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ Lao động, Thương binh và xã hội sớm nghiên cứu, rà soát những bất cập về một số quy định đối với người có công (như: điều kiện, căn cứ xác nhận người có công còn thiếu, chưa phù hợp giữa các đối tượng; cơ sở xác định bệnh và chế độ đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học/Dioxin,...), trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 9/4/2013 Quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng. Đồng thời, hiện hệ thống văn bản quy định các chính sách đối với người có công quá nhiều, lại có hiệu lực thi hành ở các thời điểm khác nhau nên việc áp dụng xử lý hồ sơ khó khăn và phát sinh nhiều vướng mắc. Vì vậy, trên cơ sở tổng kết, đánh giá việc thi hành Pháp lệnh người có công năm 2012 để dự thảo tham mưu cho Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng (vào tháng 11/2017), Bộ cần nghiên cứu tổng hợp, hạn chế đầu mối văn bản và thống nhất thời hiệu áp dụng để thuận lợi trong quá trình triển khai thi hành.

Trả lời:

Về kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin tiếp thu, nghiên cứu trong quá trình sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (hoặc xây dựng Luật Người có công với cách mạng).

101. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị có hướng dẫn cụ thể để địa phương thực hiện Thông tư số 16/2014/TT-BLĐTBXH ngày 30/7/2014, vì tại Điểm c, Khoản 1, Điều 9 của Thông tư 16 quy định: “Xác nhận của cơ quan chức năng thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an về thời gian tù và nơi bị tù”, tuy nhiên, Bộ Công an lại có công văn số 4256/BCA-X11 ngày 01/12/2014 về việc xác định cơ quan có thẩm quyền cấp giấy xác nhận người có công với cách mạng quy định: “Bộ Công an chỉ có trách nhiệm xác nhận thời gian tù và nơi bị tù đối với cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân tham gia hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày…”, 02 quy định trên không thống nhất, gây khó khăn cho địa phương thực hiện.

Trả lời:

Để tháo gỡ vướng mắc nêu trên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có văn bản số 4178/LĐTBXH-NCC ngày 24/10/2016 gửi Bộ Công an đề nghị hướng dẫn việc xác nhận cho công dân về thời gian tù, nơi bị tù để làm căn cứ xác lập hồ sơ, đề nghị giải quyết chế độ người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày. Trên cơ sở đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp chỉ đạo giải quyết cụ thể.

102. Cử tri tỉnh Bạc Liêu kiến nghị: Cử tri đề nghị sớm rà soát hồ sơ chế độ công nhận liệt sĩ, vì hiện nay tiến độ thực hiện còn chậm, có trường hợp làm hồ sơ hơn 2 năm vẫn chưa được công nhận.

Trả lời:

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ yêu cầu tỉnh Bạc Liêu báo cáo cụ thể về vấn đề này để chỉ đạo giải quyết.

103. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri phản ảnh, tại Điều 2, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng quy định cụ thể 12 đối tượng là người có công được hưởng chế độ ưu đãi theo Pháp lệnh là chưa đầy đủ. Cử tri đề nghị bổ sung thêm đối tượng là “lực lượng Thanh niên xung phong Đà nẵng”, đồng thời tách đối tượng “làm nghĩa vụ quốc tế” riêng với đối tượng là “Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc” được quy định tại điểm l, khoản 1, Điều 2 của Pháp lệnh .

Trả lời:

a) Về nội dung bổ sung thêm đối tượng là lực lượng Thanh niên xung phong Đà Nẵng: Tại Điều 2, Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng (sửa đổi, bổ sung) đã quy định 12 đối tượng người có công với cách mạng, không quy định đối tượng phải tham gia lực lượng nào. Do vậy, Thanh niên xung phong Đà Nẵng nếu đủ điều kiện thì cũng được xem xét công nhận là người có công với cách mạng theo quy định.

b) Về đề nghị tách đối tượng: Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng quy định chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và đối với người hoạt động kháng chiến làm nghĩa vụ quốc tế là như nhau, việc tách đối tượng “làm nghĩa vụ quốc tế” và “người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc” là không cần thiết.

104. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Kiến nghị Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trong thời gian tới nghiên cứu, sửa đổi quy định về pháp luật lao động và các quy định pháp luật khác để phân cấp hoặc giao nhiệm vụ trực tiếp cho Ban quản lý thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về lao động thay cho cơ chế ủy quyền hiện nay theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng tại Thông báo số 352/TB-VPCP  ngày 04/11/2015 của Văn phòng Chính phủ.

Trả lời:

Hiện nay Bộ luật lao động và các văn bản quy phạm pháp luật đều quy định nhiệm vụ quản lý nhà nước về lao động trong phạm vi cả nước thuộc về Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và ở địa phương là Uỷ ban nhân dân các cấp. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan tham mưu, giúp việc cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.   

Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về lao động trong các khu công nghiệp và thuận tiện cho doanh nghiệp thực hiện các nhiệm vụ về lao động với cơ quan quản lý nhà nước về lao động, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 32/2014/TT-BLĐTBXH ngày 01/12/2014 hướng dẫn ủy quyền thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước về lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế và khu công nghệ cao.

Sau gần 02 năm triển khai thi hành đã có 98 văn bản ủy quyền thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước về lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế và khu công nghệ cao của Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đối với Ban quản lý khu công nghiệp (26 văn bản ủy quyền của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; 36 văn bản ủy quyền của Ủy ban nhân dân các huyện, quận, thị xã trực thuộc tỉnh; 36 văn bản ủy quyền của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh).

Qua tổng kết, đánh giá thi hành việc ủy quyền, báo cáo của các địa phương cho rằng cơ chế thực hiện ủy quyền một số nhiệm vụ quản lý nhà nước về lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao là linh hoạt, hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn theo quy định tại Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.

Trong thời gian tới Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá tổng kết việc thực hiện ủy quyền để nghiên cứu đề xuất với Chính phủ xác lập cơ chế quản lý nhà nước về lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất cho phù hợp với thực tiễn.

105. Cử tri tỉnh Bình Dương kiến nghị: Một trong những nội dung chính về lao động trong Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) là các nước tham gia phải tôn trọng và bảo đảm quyền của người lao động trong việc thành lập, gia nhập tổ chức của người lao động tại cơ sở, dẫn đến sẽ có nhiều tổ chức đại điện cho người lao động được thành lập song song với công đoàn hiện nay, gây khó khăn cho người lao động. Cử tri đề nghị Chính phủ cần nghiên cứu và sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về việc phối hợp hoạt động giữa tổ chức công đoàn và tổ chức đại diện cho người lao động nói trên.

Trả lời:

Theo chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự án Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật lao động năm 2012 dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 3 (tháng 4-5/2017) theo hướng tạo điều kiện đáp ứng với yêu cầu hội nhập thương mại quốc tế của đất nước.

Quá trình soạn thảo dự thảo Luật này, có ý kiến đề nghị sửa đổi nội dung về tổ chức đại diện người lao động theo hướng cho phép người lao động được quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn hoặc tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp để đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động trong quan hệ lao động. Đây là vấn đề mới chưa có trong thực tiễn quan hệ lao động tại Việt Nam và do đó có nhiều ý kiến băn khoăn giống ý kiến cử tri tỉnh Bình Dương.

Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang tích cực nghiên cứu để quy định trong dự thảo về nội dung này theo tinh thần Nghị quyết lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII với các điều luật nhằm bảo đảm nâng cao vai trò, vị thế của tổ chức công đoàn trong quan hệ lao động; tạo điều kiện để tổ chức này hoạt động lành mạnh đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động trong quan hệ lao động; quản lý có hiệu quả sự ra đời và hoạt động của tổ chức này nhằm giữ vững ổn định chính trị xã hội.

106. Cử tri Bà Rịa - Vũng Tàu, Khánh Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị:  Đề nghị Nhà nước quan tâm cải cách chính tiền lương và thu nhập cho người lao động để nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm an sinh xã hội.

Trả lời:

Theo quy định của Bộ luật Lao động thì tiền lương trả cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp căn cứ vào năng suất lao động và chất lượng công việc. Các chế độ khuyến khích, trợ cấp, nâng bậc, nâng lương đối với người lao động được thoả thuận trong hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể hoặc quy định trong quy chế của người sử dụng lao động. Chính phủ chỉ quy định mức lương tối thiểu là mức thấp nhất trả cho người lao động làm công việc giản đơn nhất, trong điều kiện lao động bình thường và phải bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Mức lương tối thiểu là căn cứ để người lao động thương lượng và thỏa thuận tiền lương ghi trong hợp đồng lao động.

Thực hiện quy định của Bộ luật Lao động, trong các năm vừa qua mức lương tối thiểu vùng đã từng bước được điều chỉnh phù hợp với điều kiện sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, không gây tăng đột biến chi phí của doanh nghiệp và từng bước tiếp cận nhu cầu sống tối thiểu, góp phần bảo đảm đời sống của người lao động. Hiện nay, theo phân công của Chính phủ Bộ Lao động - Thương binh và xã hội đang xây dựng lộ trình điều chỉnh mức lương tối thiểu bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động. Đồng thời, Bộ đang được Chính phủ giao chủ trì soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động và trình Quốc hội cho ý kiến vào tháng 3/2017. Vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ghi nhận ý kiến đề xuất của cử tri để sửa đổi, bổ sung trong quá trình sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật Lao động.

Đối với cán bộ, công chức khu vực hưởng lương từ ngân sách nhà nước, hiện nay Chính phủ đang giao cho Bộ Nội vụ chủ trì xây dựng đề án cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức và lực lượng vũ trang để trình Ban Chấp hành Trung ương vào năm 2018.

107. Cử tri tỉnh Hà Giang kiến nghị: Đề nghị xem xét điều chỉnh, nâng mức lương tối thiểu vùng IV lên tương đương mức lương tối thiểu vùng I, II.

Trả lời:

Thực hiện quy định tại Điều 91 của Bộ luật Lao động, Chính phủ đã quy định địa bàn áp dụng tiền lương tối thiểu thành 04 vùng theo địa giới hành chính cấp quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Việc phân vùng dựa vào điều kiện kinh tế xã hội, mức sống dân cư, thị trường lao động và mức tiền lương trên thị trường lao động của từng vùng. Đồng thời, hằng năm khi xây dựng Nghị định quy định mức lương tối thiểu vùng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đều có văn bản đề nghị các địa phương rà soát địa bàn áp dụng mức lương tối thiểu vùng gửi về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để tổng hợp, báo cáo Chính phủ điều chỉnh cho phù hợp. Qua quá trình thực hiện, nhìn chung việc phân vùng các địa bàn áp dụng mức lương tối thiểu theo 4 vùng về cơ bản phù hợp với thực tế của các địa phương, vì vậy trường hợp cử tri tỉnh Hà Giang thấy địa bàn áp dụng tiền lương tối thiểu nào không hợp lý thì đề nghị báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang tiến hành rà soát và gửi ý kiến đề xuất điều chỉnh về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để tổng hợp, báo cáo Chính phủ điều chỉnh trong thời gian tới.

108. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Đề nghị ban hành Thông tư hướng dẫn Nghị định số 51/2016/NĐ-CP, Nghị định số 52/2016/NĐ-CP, Nghị định số 53/2016/NĐ-CP ngày 13/6/2016 của Chính phủ về cơ chế quản lý lao động, tiền lương, thu lao, tiền thưởng đối với người lao động và người quản lý trong công ty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và công ty cổ phần có vốn góp chi phối của Nhà nước.

Trả lời:

Thực hiện quy định tại Nghị định số 51/2016/NĐ-CP, Nghị định số 52/2016/NĐ-CP, Nghị định số 53/2016/NĐ-CP ngày 13/6/2016 của Chính phủ về cơ chế quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với người lao động và người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và công ty cổ phần có vốn góp chi phối của Nhà nước, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành các Thông tư số 26/2016/TT-BLĐTBXH, Thông tư số 27/2016/TT-BLĐTBXH và Thông tư số 28/2016/TT-BLĐTBXH ngày 01/9/2016 hướng dẫn thực hiện các Nghị định số 51/2016/NĐ-CP, Nghị định số 52/2016/NĐ-CP, Nghị định số 53/2016/NĐ-CP nêu trên.

109. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xem xét, sửa đổi bổ sung Thông tư  số 12/1998/TT-LĐTBXH ngày 16/10/1998 về hướng dẫn chế độ đối với những người được cấp xã hợp đồng làm công tác bảo vệ rừng trong các tháng mùa khô theo hướng nâng mức phụ cấp và các chế độ cho những người được cấp xã hợp đồng làm công tác bảo vệ rừng trong các mùa khô.

Trả lời:

Ngày 08/02/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 07/2012/QĐ-TTg ban hành một số chính sách tăng cường công tác bảo vệ rừng theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong đó tại Điểm a, Khoản 1, Điều 3 quy định: Hỗ trợ 100.000 đồng/ha/năm để tổ chức quản lý bảo vệ rừng đối với diện tích rừng do Ủy ban nhân dân cấp xã trực tiếp quản lý; Ủy ban nhân dân cấp xã sử dụng nguồn kinh phí này chi cho các hoạt động quản lý bảo vệ rừng trong đó bao gồm cả thực hiện hợp đồng lao động bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng và các hoạt động khác trong công tác quản lý bảo vệ rừng. Vì vậy, chế độ đối với những người được cấp xã hợp đồng làm công tác bảo vệ rừng trong các tháng mùa khô thực hiện theo Quyết định số 07/2012/QĐ-TTg nêu trên.

110. Cử  tri tỉnh Trà Vinh, Tây Ninh kiến nghị: Đề nghị tăng thêm mức lương làm thêm giờ đối với công nhân làm việc tăng ca vào ban đêm.

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật Lao động, người lao động làm việc vào ban đêm thì được trả thêm ít nhất bằng 30% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc của ngày làm việc bình thường, người lao động làm thêm giờ vào ban đêm thì ngoài việc được trả lương làm thêm giờ, trả lương làm việc vào ban đêm theo quy định còn được trả thêm 20% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc làm vào ban ngày. Như vậy, quy định về làm thêm giờ vào ban đêm đã được sửa đổi, điều chỉnh tăng thêm so với quy định trước đây tại Bộ luật Lao động năm 1995, theo đó người lao động làm thêm giờ vào ban đêm được trả lương ít nhất bằng 200% hoặc 210%  (đối với người lao động làm thêm giờ vào ban đêm của ngày làm việc bình thương), ít nhất bằng 270% (đối với người lao động làm thêm giờ vào ban đêm của ngày nghỉ hằng tuần) và ít nhất bằng 390% (đối với người lao động làm thêm giờ vào ban đêm của ngày lễ, tết, ngày nghỉ có hưởng lương) so với mức lương của ngày làm việc bình thường.

111. Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị: Tại Mục 4, Chương XIV Bộ luật lao động 2012 quy định về đình công và giải quyết đình công nhưng trên thực tế những quy định về trình tự, thủ tục để tổ chức đình công rất khó thực hiện. Từ năm 2011 đến 30/6/2016 trên địa bàn tỉnh xảy ra 37 vụ đình công đều không đúng quy định của pháp luật. Do vậy, để tổ chức công đoàn đứng ra tổ chức và lãnh đạo các cuộc đình công đúng theo quy định của pháp luật, đề nghị Quốc hội nghiên cứu, sửa đổi những quy định về trình tự, thủ tục tiến hành đình công.

Trả lời:

Đình công là hành động mà các bên trong quan hệ lao động không mong muốn xảy ra vì điều này gây ra thiệt hại cho cả doanh nghiệp, người lao động và nhà nước. Vì vậy, pháp luật lao động đã quy định cụ thể quy trình, thủ tục tổ chức đình công, quyền của các bên trước và trong quá trình đình công, những trường hợp đình công bất hợp pháp, các hành vi bị cấm trước, trong và sau khi đình công, trường hợp không được đình công, xử lý cuộc đình công không đúng trình tự thủ tục.

Thời gian qua nhiều cuộc đình công xảy ra, tuy nhiên các cuộc đình công này đều không do ban chấp hành công đoàn cơ sở tổ chức và lãnh đạo. Việc xảy ra các cuộc đình công này là do các bên chưa thực hiện đối thoại dân chủ, thương lượng, giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật; một số trường hợp do vi phạm pháp luật về lao động; tổ chức công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp chưa phát huy đúng vai trò của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.

Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang phối hợp với các bên liên quan rà soát Bộ luật Lao động để sửa đổi, bổ sung trong đó tiếp tục tôn trọng quyền tự quyết định của các bên, tăng cường đối thoại, thương lượng để xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, giải quyết tranh chấp lao động theo quy định của pháp luật trên cơ sở phát huy vai trò các thiết chế hòa giải. Đề nghị Tổng liên đoàn lao động Việt Nam phát huy hơn nữa vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở trong việc tham gia đối thoại, thương lượng giải quyết tranh chấp lao động để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.

112. Cử tri tỉnh Đồng Nai, Lai Châu, Phú Yên, Tiền Giang, Nghệ An, thành phố Đà Nẵng, Tây Ninh, Khánh Hòa, Đồng Nai, Gia Lai, Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Trị, Quảng Nam, An Giang, Tiền Giang, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Thái Nguyên, Khánh Hòa - Kiến nghị số 94, 95, 98, 99, 101,103, 104, 106 kiến nghị: Nhóm kiến nghị của cử tri có chung nội dung về điều chỉnh lương hưu, điều chỉnh mức lương hưu đối với những người nghỉ hưu trước năm 1994 có mức lương hưu thấp so với những người nghỉ hưu ở giai đoạn từ năm 1994 trở về sau.

Trả lời:

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới đời sống của những người nghỉ hưu, trong đó có người nghỉ hưu trước năm 1995. Trong giai đoạn 2003 - 2007, Chính phủ đã 05 lần điều chỉnh lương hưu với mức tăng từ 164,8% đến 228,8% (tuỳ thuộc vào mức lương khi nghỉ hưu và thời điểm nghỉ hưu) so với mức lương hưu của tháng 12 năm 2002, trong đó người nghỉ hưu trước tháng 9 năm 1985 và trước tháng 4 năm 1993 được điều chỉnh với tỷ lệ cao hơn những người nghỉ hưu ở giai đoạn từ tháng 4 năm 1993 trở về sau. Trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay, Chính phủ cũng đã 08 lần điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng với mức tăng thêm 168,5% so với cuối năm 2007.

Thông qua việc thực hiện điều chỉnh lương hưu nêu trên, đời sống của người nghỉ hưu từng bước được cải thiện và Chính phủ cũng đã thực hiện các biện pháp nhằm giảm bớt chênh lệch lương hưu của người nghỉ hưu giữa các thời kỳ. Tuy nhiên, do chính sách bảo hiểm xã hội được thực hiện theo nguyên tắc đóng- hưởng, tiền lương của người lao động ở thời kỳ sau luôn có xu hướng được cải thiện hơn so với thời kỳ trước và do đó khi nghỉ hưu cũng thường có mức lương hưu cao hơn, việc điều chỉnh lương hưu nhằm đảm bảo sự tương quan về mức lương hưu giữa các thời kỳ nhưng cũng chưa xử lý triệt để được.

Riêng đối với những người nghỉ hưu có mức lương hưu thấp (bao gồm cả người nghỉ hưu trước và sau tháng 4 năm 1993), ngày 11/11/2015, trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 99/2015/QH13 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016, theo đó “Từ ngày 01/01/2016, thực hiện điều chỉnh tiền lương đối với người có mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động dưới 2.000.000 đồng/tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian công tác trước năm 1995 để lương hưu của các đối tượng này đạt mức lương cơ sở...”

Triển khai Nghị quyết số 99/2015/QH13 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2016/NĐ-CP ngày 15/6/2016 điều chỉnh mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian làm việc trước năm 1995; ngày 15/7/2016, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 23/2016/TT-BLĐTBXH hướng dẫn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng. Theo đó từ ngày 01/01/2016, tăng thêm 250.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng lương hưu có mức lương hưu dưới 2 triệu đồng/tháng và tăng thêm 150.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng với mức trợ cấp dưới 2 triệu đồng/tháng.

Trên cơ sở kết quả thực hiện việc điều chỉnh lương hưu, trợ cấp nêu trên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành để rà soát, đánh giá và đề xuất các phương án điều chỉnh lương hưu cho các giai đoạn tiếp theo.

Ngoài chính sách bảo hiểm xã hội, đối với những người đã từng tham gia kháng chiến, người có công lao, thành tích đóng góp cho cách mạng được thực hiện các chính sách ưu đãi theo quy định của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng.

113. Cử tri các tỉnh Phú Thọ, Bắc Kạn, Bình Dương, Bình Phước, An Giang, Hải Phòng kiến nghị: Nhóm kiến nghị của cử tri có chung nội dung về đề nghị có giải pháp nhằm hạn chế tình trạng trốn đóng, nợ đóng, chậm nộp tiền bảo hiểm xã hội.

Trả lời:

Theo số liệu thống kê cho thấy số nợ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế tính đến 31/12/2016 là 7.795 tỷ đồng, chiếm 3,3% so với số phải thu (số nợ cùng kỳ năm 2015 là 9.920 tỷ đồng, chiếm 4,88% so với số phải thu[1]); trong đó: nợ bảo hiểm xã hội bắt buộc 6.716,2 tỷ đồng, nợ bảo hiểm thất nghiệp là 337 tỷ đồng và nợ bảo hiểm y tế là 742,2 tỷ đồng. Phân tích cơ cấu số nợ bảo hiểm xã hội phân chia theo loại hình doanh nghiệp cho thấy, số nợ bảo hiểm xã hội bắt buộc vẫn tập trung nhiều ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.

Để hạn chế tình trạng nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động, bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có nhiều văn bản gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Bảo hiểm xã hội Việt Nam đề nghị phối hợp đôn đốc, chỉ đạo các cơ quan chức năng ở địa phương phối hợp thực hiện nghiêm các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội; trong đó tập trung các hoạt động nhằm hạn chế tình trạng trốn đóng, nợ đóng bảo hiểm xã hội, trước hết tập trung kiểm tra, thanh tra các doanh nghiệp nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội, xử lý nghiêm các trường hợp cố tình vi phạm.

Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung nhằm tăng tính tuân thủ pháp luật, hạn chế tình trạng trốn đóng, nợ đóng bảo hiểm xã hội như: quy định về quyền của người lao động định kỳ được cung cấp thông tin về đóng bảo hiểm xã hội; quyền thanh tra chuyên ngành việc đóng bảo hiểm xã hội cho cơ quan bảo hiểm xã hội; quyền của tổ chức công đoàn khởi kiện ra Tòa án đối với hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động; Tăng mức lãi đối với số tiền chậm đóng bảo hiểm xã hội lên bằng 02 lần mức lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng; bổ sung thêm quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong tuyên truyền, vận động, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội. Đặc biệt, Bộ luật hình sự (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015 đã bổ sung tội danh trốn đóng bảo hiểm xã hội. Theo đó, đối với tội danh trốn đóng bảo hiểm xã hội ngoài việc bị phạt tiền, có thể bị phạt tù đến 7 năm.

Mới đây, ngày 26/12/2016 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 34/CT-TTg về tăng cường thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó Thủ tướng Chính phủ cũng đã yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm tăng tính tuân thủ trong tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, yêu cầu doanh nghiệp tham gia bảo hiểm xã hội đầy đủ cho người lao động; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về bảo hiểm xã hội, trong đó tập trung thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm đối với các đơn vị, doanh nghiệp cố tình trốn đóng, nợ đóng bảo hiểm xã hội.

Trong thời gian tới, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục đôn đốc, chỉ đạo các cơ quan chức năng ở địa phương tăng cường phối hợp thực hiện đồng bộ các giải pháp; tăng cường công tác thanh tra, đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành bảo hiểm xã hội nhằm hạn chế tình trạng trốn đóng, nợ đóng bảo hiểm xã hội.

114. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri cho rằng, hiện nay đang có chủ trương vận động những người suy giảm khả năng lao động nghỉ hưu trước tuổi là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, quy định tỷ lệ % về suy giảm khả năng lao động quá cao (61% đến 81% tùy theo độ tuổi) đã gây khó khăn cho những người có nguyện vọng nghỉ hưu trước tuổi. Đề nghị xem xét lại vấn đề này.

Trả lời:

Theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, người lao động để được hưởng lương hưu hàng tháng thì người lao động phải đáp ứng hai điều kiện về tuổi đời và điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Quy định này nhằm đảm bảo khả năng cân đối tài chính bảo hiểm xã hội, người lao động phải tích luỹ đủ số năm đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội trong quá trình làm việc để khi về già không còn khả năng làm việc thì được hưởng lương hưu hàng tháng.

Pháp luật về bảo hiểm xã hội cũng quy định đối với người lao động bị suy giảm khả năng lao động thì được hưởng lương hưu ở độ tuổi thấp hơn so với người lao động bình thường, quy định này nhằm tạo điều kiện để những người lao động do ốm đau, bệnh tật, sức khỏe suy giảm không thể làm việc thì có cơ hội được hưởng lương hưu ổn định cuộc sống. Việc quy định tỷ lệ bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên đối với người lao động về hưu trước đã được nghiên cứu và thực hiện kể từ năm 1995 đến nay (trước năm 1995 là chế độ mất sức lao động), trong quá trình triển khai thực hiện về cơ bản đã ổn định, góp phần bảo đảm cuộc sống của người lao động khi suy giảm khả năng lao động. Kinh nghiệm thực hiện của các nước trên thế giới cũng áp dụng đối với người bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.

115. Cử tri tỉnh Vĩnh Phúc kiến nghị: Cần quan tâm cơ chế tăng phụ cấp hưu trí cho cán bộ xã đã nghỉ hưu trước Nghị định 09/1998/NĐ-CP.

Trả lời:

Nội dung cử tri kiến nghị thuộc thẩm quyền xem xét của Bộ Nội vụ.

116. Cử tri tỉnh Đồng Nai  kiến nghị: Cử tri phản ánh việc điều chỉnh tăng thêm 8% cho các đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng (theo quy định tại Thông tư số 05/TT-BLĐTBXH ngày 02/02/2015 của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội về “Hướng dẫn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng theo Nghị định số 09/2015/NĐ-CP ngày 22/01/2015 của Chính phủ”) chỉ áp dụng cho đối tượng được hưởng từ trước ngày 01/01/2015, không áp dụng cho đối tượng được hưởng từ sau ngày 01/01/2015 là không hợp lý. Mặt khác, Nghị định số 09/2015/NĐ-CP ngày 22/01/2015 của Chính phủ chỉ quy định về thời điểm và mức điều chỉnh chung cho các đối tượng, không phân biệt đối tượng được hưởng trước hoặc sau ngày 01/01/2015. Cử tri kiến nghị Chính phủ quan tâm chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan xem xét giải quyết đối với vấn đề nêu trên (Cử tri tỉnh Đồng Nai - Kiến nghị số 107).

Trả lời:

Thực hiệnNghị quyết số 78/2014/QH13 ngày 10/11/2014 của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước năm 2015 và theo phân công của Chính phủ, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã phối hợp cùng với các Bộ, ngành liên quan xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị định số 09/2015/NĐ-CP ngày 22/01/2015 và Bộ đã ban hành Thông tư số 05/2015/TT-BLĐTBXH ngày 02/02/2015 hướng dẫn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH và trợ cấp hàng tháng; theo đó, đối tượng điều chỉnh là người đang hưởng lương hưu, trợ cấp hàng tháng và thời điểm điều chỉnh từ ngày 01/01/2015. Việc thực hiện điều chỉnh như trên là phù hợp với những lần điều chỉnh lương hưu trước đây (Nghị định số 23/2011/NĐ-CP ngày 04/4/2011 và Thông tư số 13/2011/TT-BLĐTBXH ngày 27/4/2011; Nghị định số 35/2012/NĐ-CP ngày 18/4/2012 và Thông tư số 09/2012/TT-BLĐTBXH ngày 26/4/2012; Nghị định số 73/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 và Thông tư số 13/2013/TT-BLĐTBXH ngày 21/8/2013).

Về kiến nghị của cử tri điều chỉnh đối với những người nghỉ hưu từ ngày 01/01/2015 trở đi do không thuộc đối tượng điều chỉnh lương hưu theo Nghị định số 09/2015/NĐ-CP và Thông tư số 05/2015/TT-BLĐTBXH. Thực hiện Nghị quyết số 99/2015/QH13 ngày 11/11/2015 của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016, ngày 15/6/2016 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2016/NĐ-CP và ngày 15/7/2016 Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 23/2016/TT-BLĐTBXH về điều chỉnh mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian làm việc trước năm 1995. Theo đó, việc điều chỉnh tăng thêm 8% đã được mở rộng tới nhóm đối tượng hưởng sau ngày 01/01/2015. Cụ thể, nhóm người nghỉ hưu, hưởng trợ cấp hằng tháng trong thời gian từ ngày 01/01/2015 đến trước ngày 01/05/2016 đã được thực hiện tăng thêm 8% mức lương hưu, trợ cấp hiện hưởng.

117. Cử tri tỉnh Hải Dương, Phú Yên, Hải Phòng, Quảng Ngãi, Lâm Đồng - Kiến nghị số 108, 109, 110, 124 kiến nghị:  Nhóm kiến nghị của cử tri về vấn đề tăng tuổi nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động.

Trả lời:

Thực hiện Nghị quyết số 22/2016/QH14 ngày 29/7/2016 của Quốc hội về việc điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017 và phân công của Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được giao chủ trì soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật lao động. 

Trong quá trình đánh giá sơ kết 03 năm thực hiện Bộ luật lao động để làm cơ sở cho việc đề xuất sửa đổi, bổ sung Bộ luật lao động đã có những ý kiến đề nghị cần thiết phải xem xét điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu để tận dụng nguồn nhân lực có trình độ, có kinh nghiệm và ứng phó với vấn đề già hóa dân số; vấn đề cân đối quỹ bảo hiểm xã hội chỉ là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến việc cần thiết phải xem xét điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu. Hiện nay, Ban soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động đang nghiên cứu, đề xuất các phương án điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu, đánh giá tác động của việc điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu tới vấn đề việc làm, thị trường lao động, sức khỏe của người lao động, giới tính...

Để hạn chế tác động của việc tăng tuổi nghỉ hưu tới vấn đề việc làm, thị trường lao động và sức khỏe của người lao động, phương án đề xuất tăng tuổi nghỉ hưu được xem xét thận trọng, thực hiện theo lộ trình (mỗi năm tăng thêm 3 tháng) và có xem xét đến tính chất, đặc thù của ngành nghề, công việc; không thực hiện tăng tuổi nghỉ hưu đối với người lao động làm nghề hoặc công việc năng nhọc, độc hại, nguy hiểm.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đánh giá tác động của việc điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu tới vấn đề việc làm, thị trường lao động, sức khỏe của người lao động,... như kiến nghị của cử tri để đề xuất phương án phù hợp trình Chính phủ, Quốc hội.

118. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội, người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 30 năm đối với nữ và 35 năm đối với nam thì đạt tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa 75%. Cử tri cho rằng, việc quy định lộ trình tăng dần thời gian đóng bảo hiểm xã hội để đạt tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa 75% sẽ thực hiện được tại thời điểm hiện tại, đề nghị xem xét, nghiên cứu sửa đổi quy định về lộ trình thực hiện cho phù hợp.

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 56 Luật Bảo hiểm xã hội thì kể từ ngày 01/01/2016  đến trước ngày 01/01/2018, mức lương hưu hằng tháng của người lao động được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm thì tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%.

Từ ngày 01/01/2018, mức lương hưu hằng tháng của người lao động được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội và tương ứng với số năm đóng bảo hiểm xã hội như sau:

- Lao động nam nghỉ hưu vào năm 2018 là 16 năm, năm 2019 là 17 năm, năm 2020 là 18 năm, năm 2021 là 19 năm, từ năm 2022 trở đi là 20 năm;

- Lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi là 15 năm.

Sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội, người lao động được tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%.

Như vậy, tỷ lệ hưởng lương hưu của người lao động đã được quy định theo lộ trình cụ thể để đạt tỷ lệ tối đa 75%, có tính đến đặc thù của lao động nữ.

119. Cử tri tỉnh tỉnh Hải Dương kiến nghị: Đối với các đơn vị sử dụng lao động đã giải thể, phá sản, chủ sử dụng lao động bỏ trốn hiện còn nợ tiền BHXH, BHYT, BHTN. Đề nghị Chính phủ chi từ ngân sách nhà nước đóng thay cho người sử dụng lao động phần tiền nợ BHXH về chế độ hưu trí và tử tuất (22%) vào quỹ bảo hiểm xã hội, để cơ quan BHXH tính thời gian tham gia BHXH cho người lao động.

Trả lời:

Trong thời gian qua Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã có nhiều giải pháp tăng tính tuân thủ pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc, hạn chế tình trạng trốn đóng, nợ đóng bảo hiểm xã hội; đồng thời có nhiều giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển (Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP ngày 28/4/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; ..). Chính phủ cũng đã có nhiều giải pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp có chủ bỏ trốn, phá sản, giải thể, doanh nghiệp gặp khó khăn do suy giảm kinh tế như cho vay không lãi suất, tạm ứng ngân sách trả nợ lương, bảo hiểm xã hội (Quyết định số 30/2009/QĐ-TTg ngày 23/02/2009; Quyết định số 87/2010/QĐ-TTg ngày 24/12/2010; văn bản số 1490/TTg-KGVX ngày 24/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ,..).

Đặc biệt, để giải quyết kịp thời chế độ cho người lao động trong các doanh nghiệp gặp khó khăn đang nợ đóng bảo hiểm xã hội, tại khoản 3 Điều 18 của Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 của Chính phủ đã quy định “Người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bao gồm cả tiền lãi chậm đóng theo quy định đối với người lao động đủ điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội hoặc chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc để kịp thời giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động”. Như vậy, với quy định này, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đang gặp khó khăn nợ đóng bảo hiểm xã hội không có khả năng đóng ngay được hết số tiền nợ bảo hiểm xã hội được đóng riêng cho từng người lao động để kịp thời giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động đủ điều kiện hưởng; chốt sổ bảo hiểm xã hội để trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động thôi việc chuyển đơn vị khác.

Về tổng thể liên quan đến chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động trong các doanh nghiệp có chủ bỏ trốn, phá sản, giải thể như cử tri kiến nghị; theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đang tổng hợp ý kiến tham gia của các Bộ, ngành, địa phương để hoàn thiện văn bản đề xuất phương án xử lý báo cáo Chính phủ.

120. Cử tri tỉnh Trà Vinh, Điện Biên kiến nghị: Đề nghị cần rà soát, xem xét và có chính sách đối với cán bộ trước đây đã nghỉ việc nhưng chưa đến tuổi nghỉ hưu

Theo Bộ luật lao động và Luật bảo hiểm xã hội quy định nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi, đủ năm đóng bảo hiểm xã hội và có đủ 15 năm trở lên làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên thì được hưởng chế độ nghỉ hưu. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn và thực tế áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi, đủ năm đóng bảo hiểm xã hội và đủ 15 năm trở lên làm việc ở các khu vực này là phải nghỉ hưu dù người lao động có đủ sức khỏe và vẫn mong muốn cống hiến cho xã hội. Đề nghị Bộ, ngành ban hành văn bản liên ngành hướng dẫn về việc nghỉ hưu đối với các đối tượng này .

Trả lời:

Theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và các văn bản quy định chi tiết, người lao động được hưởng lương hưu khi nghỉ việc mà nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên, trong đó có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên.

Trường hợp người lao động đã đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định  trên mà vẫn muốn tiếp tục làm việc và người sử dụng lao động vẫn có nhu cầu thì người lao động tiếp tục làm việc và tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định. Trường hợp người sử dụng lao động không có nhu cầu hoặc người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì thủ tục, hồ sơ giải quyết để người lao động hưởng lương hưu được quy định tại Điều 108, Điều 110 Luật Bảo hiểm xã hội. Theo đó, người sử dụng lao động phải ra quyết định nghỉ việc và lập hồ sơ hưởng lương hưu đối với người đang đóng bảo hiểm xã hội gửi cơ quan bảo hiểm xã hội giải quyết theo quy định.

Riêng đối với công chức, viên chức, việc ra quyết định nghỉ hưu được quy định tại Nghị định số 46/2010/NĐ-CP ngày 27/4/2010 của Chính phủ quy định về thôi việc và nghỉ hưu đối với công chức; Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức. Do vậy, nội dung cử tri kiến nghị thuộc thẩm quyền xem xét, giải quyết của Bộ Nội vụ.

121. Cử tri tỉnh Nghệ An  kiến nghị: Tình hình chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội qua hệ thống bưu điện còn nhiều bất cập, gây phiền hà cho người dân như chen chúc, xếp hàng, chờ đợi, người dân phải đi lại nhiều lần. Đề nghị chỉ đạo các ngành liên quan xem xét lại vấn đề này, nếu không khắc phục được thì đề nghị giao cho cán bộ xã cấp phát chế độ này như trước đây.

Trả lời:

Từ tháng 8/2011 trở về trước, công tác chi trả lương hưu và các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội được bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện thông qua đại diện chi trả tại xã phường theo hình thức hợp đồng trách nhiệm 3 bên giữa bảo hiểm xã hội huyện, Ủy ban nhân dân xã/phường và cán bộ chi trả. Thực tế triển khai đã bộc lộ một số hạn chế như: nhiều đầu mối chi trả, khó khăn trong công tác quản lý; xảy ra rủi ro, thất thoát trong công tác chi trả không thu hồi được; số liệu chi trả phân tán ở các xã phường, không có hệ thống báo cáo nên không nắm bắt được số liệu chi trả một cách kịp thời…

Từ tháng 9/2011, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam đã phối hợp với Tổng công ty Bưu điện Việt Nam tổ chức thực hiện thí điểm chi trả lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội qua hệ thống Bưu điện. Trên cơ sở đánh giá kết quả thí điểm, ngày 17/4/2013, Chính phủ có văn bản số 3069/VPCP-KTTH đồng ý cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện mở rộng việc chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng qua Bưu điện từ năm 2013 trên phạm vi toàn quốc.

Qua ý kiến, kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục phối hợp cùng với cơ quan Bảo hiểm xã hội, một số Bộ, ngành có liên quan và các địa phương để có sự theo dõi, giám sát và đánh giá khách quan về tính hiệu quả của việc triển khai thực hiện công tác chi trả của ngành Bưu điện để có những điều chỉnh kịp thời và trong trường hợp không phù hợp sẽ có báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định.

122. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Mức đóng bảo hiểm xã hội tại Việt Nam đang cao nhất khu vực ASEAN. Trong khi đó, tốc độ phát triển của nước ta chỉ ở mức trung bình so với các nước trong khu vực. Đề nghị xem xét, điều chỉnh mức thu BHXH phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và đời sống của mọi người dân.

Trả lời:

Chính sách bảo hiểm xã hội ở mỗi quốc gia được thiết kế khác nhau và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, lịch sử của mỗi nước. Chính vì vậy, việc so sánh tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội giữa các nước cần được đánh giá trong mối quan hệ với mức hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động và thân nhân người lao động.

   Xét về tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội thì Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội cao trong khu vực với tỷ lệ đóng là 28% (không tính bảo hiểm y tế), tuy nhiên cũng có một số nước có mức đóng cao hơn Việt Nam như Singapore là 37%, Trung Quốc là 38,5% và Ấn Độ là 35%.

   Tuy nhiên, tỷ lệ hưởng bảo hiểm xã hội ở Việt Nam có thể nói là cao nhất trong khu vực, thậm chí cao nhất trên thế giới. Tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa của Việt Nam là 75%, tỷ lệ tích lũy đối với nam là 2,5% và đối với nữ là 3%; trong khi đó tỷ lệ hưởng lương hưu của các nước chỉ khoảng 35%-50%, tỷ lệ tích lũy bình quân trên thế giới là 1,7% (đặc biệt Trung Quốc, Hàn Quốc chỉ là 1%).

   Từ những phân tích trên cho thấy rất khó để đánh giá tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội của một nước là cao hay thấp so với những nước còn lại vì nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau. Việc đánh giá tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội cần được xem xét trong mối quan hệ với quyền lợi hưởng các chế độ, các yếu tố kinh tế vĩ mô như sự phát triển kinh tế, GDP bình quân đầu người, cơ cấu kinh tế, sự phát triển của thị trường lao động …

   Thực hiện Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP ngày 28/4/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tiến hành đánh giá tỷ lệ đóng, hưởng của các quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm thất nghiệp, trên cơ sở đó báo cáo và đề xuất Thủ tướng Chính phủ việc điều chỉnh giảm tỷ lệ đóng của người sử dụng lao động vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và quỹ bảo hiểm thất nghiệp.

Theo phân công của Chính phủ, hiện nay Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất giảm tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và quỹ bảo hiểm thất nghiệp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

123. Cử tri tỉnh Tiền Giang, Tây Ninh, Trà Vinh kiến nghị: Đề nghị xem xét, điều chỉnh khoản 2 Điều 75 của Luật bảo hiểm xã hội về trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, theo hướng tăng mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng bảo hiểm xã hội cao hơn số năm tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75%, cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì được tính bằng 2 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH nhằm đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHXH. Bởi, theo quy định hiện hành, riêng BHXH thì hàng tháng người lao động và người sử dụng lao động đã phải đóng 26% tiền lương cho quỹ bảo hiểm xã hội (tương đương với hơn 3 tháng lương trong một năm) nhưng mức hưởng lại chỉ là 0,5 tháng đóng BHXH là chưa hợp lý.

Đề nghị tăng mức trợ cấp tử tuất vì hiện nay còn quá thấp. Đồng thời, có cơ chế chính sách trợ cấp về tử tuất đối với những người trên 80 tuổi.

Trả lời:

Một trong những nguyên tắc khi thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội là “mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội và có sự chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội”.

Đối với chế độ hưu trí, người lao động khi đáp ứng đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và điều kiện về tuổi đời thì sẽ được hưởng lương hưu, trong thời gian hưởng lương hưu được hưởng bảo hiểm y tế do quỹ bảo hiểm xã hội đóng cho người nghỉ hưu. Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu được chi trả cho những người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội vượt quá thời gian đóng bảo hiểm xã hội tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa 75%, quy định này nhằm khuyến khích đối với người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội dài.

Đối với chế độ tử tuất là chế độ bảo hiểm xã hội đối với thân nhân của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bị chết. Chế độ này nhằm trợ giúp một phần tiền tang lễ và trợ giúp cho thân nhân của người lao động khi mất đi người trụ cột trong gia đình. Chế độ tử tuất được thiết kế gồm có trợ cấp tuất hàng tháng hoặc trợ cấp tuất một lần.

Trợ cấp tuất hàng tháng được giải quyết cho những thân nhân mà người lao động khi còn sống phải có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng (vợ hoặc chồng; bố, mẹ đã hết tuổi lao động nhưng không có nguồn thu nhập hoặc thu nhập thấp hơn mức lương cơ sở; con chưa đến tuổi lao động;..) với mức hưởng hàng tháng bằng 50% mức lương cơ sở/một định xuất tuất (hoặc 70% mức lương cơ sở trong trường hợp thân nhân không có người trực tiếp nuôi dưỡng); số thân nhân được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng không quá 04 người. Trợ cấp tuất một lần được giải quyết cho thân nhân người lao động trong trường hợp người lao động không thuộc diện giải quyết trợ cấp tuất hàng tháng hoặc thuộc diện giải quyết nhưng không có thân nhân thuộc diện hưởng trợ cấp tuất hàng tháng. Mức trợ cấp tuất một lần phụ thuộc vào thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội (đối với người lao động đang đóng hoặc đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội chết); phụ thuộc vào mức lương hưu và thời gian hưởng lương hưu của người lao động (đối với người đang hưởng lương hưu chết).

 Theo các đánh giá, dự báo cân đối quỹ bảo hiểm xã hội thì với tỷ lệ đóng, hưởng vào quỹ hưu trí và tử tuất như hiện nay vẫn chưa đảm bảo được nguyên tắc đóng hưởng, mức hưởng vẫn còn cao hơn so với mức đóng. Chính vì vậy, việc cử tri kiến nghị tăng mức hưởng trợ cấp một lần khi nghỉ hưu và mức hưởng chế độ tử tuất là không có cơ sở giải quyết.

124. Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị: Tại điểm c khoản 2 Điều 12 Thông tư số 59/2015/TT-BLĐTBXH quy định: Trường hợp lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con theo quy định thì thời gian hưởng chế độ thai sản từ khi nghỉ việc đến khi đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội, kể từ thời điểm đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con thì lao động nữ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi hết thời hạn quy định tại khoản 1 hoặc khoản 3 Điều 34 Luật bảo hiểm xã hội nhưng người lao động và người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Đề nghị trong trường hợp này, người lao động và người sử dụng lao động không phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế mà doanh nghiệp chỉ phải đóng 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, số còn lại doanh nghiệp trả cho người lao động giống trường hợp lao động là người cao tuổi.

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 39 của Luật bảo hiểm xã hội “Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội, người lao động và người sử dụng lao động không phải đóng bảo hiểm xã hội”.

Căn cứ quy định nêu trên, đối với thời gian người lao động hưởng chế độ thai sản mà không “nghỉ việc” thì thời gian hưởng chế độ thai sản không được tính là thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội; thời gian này người lao động đi làm việc, có hưởng tiền lương nên người lao động và người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trên cơ sở tiền lương đó (không đóng trên số tiền hưởng chế độ thai sản hàng tháng). Ngoài ra, Luật bảo hiểm xã hội cũng quy địnhngười lao động đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản mà chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc trước thời điểm sinh con hoặc nhận con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì vẫn được hưởng chế độ thai sản nhưng thời gian hưởng chế độ thai sản không được tính là thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.

Như vậy, điểm c khoản 2 Điều 12 của Thông tư 59/2016/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2015 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội quy định trường hợp lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con theo quy định thì ngoài tiền lương, lao động nữ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi hết thời hạn quy định nhưng thời gian đi làm trước phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Quy định này đảm bảo lao động động nữ có thời gian đóng bảo hiểm xã hội liên tục và bảo vệ lao động nữ trong trường hợp không may bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,..trong thời gian đi làm trước.

125. Cử tri tỉnh Bạc Liêu kiến nghị: Theo Luật Lao động quy định đối với cán bộ, công chức công tác tại các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp.... những ngày lễ, tết Nguyên đán thì được nghỉ hoặc nghỉ bù, còn người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân thì không được nghỉ. Đề nghị các Bộ, ngành liên quan cần quan tâm xem xét  đến các đối tượng này.

Trả lời:

- Điều 115 của Bộ luật lao động quy định Người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương trong 5 ngày tết âm lịch; nếu những ngày nghỉ này trùng vào ngày nghỉ hằng tuần, thì người lao động được nghỉ bù vào ngày kế tiếp.

Theo quy định tại Điều 2 của Bộ luật Lao động thì Bộ luật lao động được áp dụng đối với  mọi người lao động thuộc doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động; không phân biệt thuộc Nhà nước hay tư nhân.

- Trường hợp các doanh nghiệp tư nhân sử dụng người lao động trong ngày nghỉ lễ, tết thì phải được sự đồng ý của người lao động theo quy định tại Điểm a, Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Lao động và phải trả lương làm thêm giờ theo điều 97 của Bộ luật lao động

Như vậy, người lao động trong các doanh nghiệp từ nhân cũng như lao động trong các cơ quan nhà nước đều được nghỉ lễ, tết và được nghỉ bù; trường hợp người sử dụng lao động yêu cầu đi làm thì phải được sự đồng ý của người lao động.

Trong quá trình thực hiện, một số doanh nghiệp tư nhân chưa thực hiện đúng các quy định trên của pháp luật, do vậy Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các địa phương sẽ phải chú ý chỉ đạo tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động tới các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn, đồng thời tăng cường việc giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với người lao động tại các doanh nghiệp tư nhân.

126. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Xem xét lại quy định giờ làm thêm cho công nhân trong ngành nhựa (hiện nay đang áp dụng 200 giờ/năm), việc làm ngoài giờ hay trong giờ nên có thỏa thuận  giữa người lao động và người sử dụng lao động. Mặt khác, hiện nay rất nhiều anh, chị em công nhân mong  làm 12 giờ để tăng mức thu nhập. Bên cạnh đó, hiện nay công nghệ rất hiện đại, gần như tự động, công nhân không phải mất nhiều sức lao động.

Trả lời:

Về quy định giờ làm thêm và nguyên tắc thỏa thuận làm trong giờ, ngoài giờ tại Bộ luật lao động:

- Khoản 2 Điều 106 quy định người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm giờ khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:

+ Được sự đồng ý của người lao động;

+ Thời giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 01 ngày, trường hợp áp dụng quy định làm việc theo tuần thì số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 01 ngày; tổng số giờ làm thêm không quá 200 giờ trong 01 năm, trừ một số trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định thì được làm thêm giờ không quá 300 giờ trong một năm.

-Thỏa thuận là nguyên tắc đã được quy định trong Bộ luật lao động. Theo quy định của Bộ luật Lao động thì hợp đồng lao động (trong đó có nội dung về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi) là sự thỏa thuận dựa trên các nguyên tắc như tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực, tự do giao kết nhưng không được trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội.

Cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng các quy định về làm thêm giờ:

- Việc xây dựng các quy định của pháp luật về thời giờ làm thêm cần được xem xét kỹ lưỡng trên nhiều mặt như cơ sở khoa học, thực tiễn liên quan đến sức khỏe người lao động, tuổi thọ lao động, sự nghỉ ngơi để phục hồi sức khỏe người lao động, phòng tránh tai nạn do kéo dài giờ làm việc, các vấn đề xã hội, cân bằng công việc cuộc sống (chăm sóc con cái, việc nhà), tỷ lệ thất nghiệp của quốc gia, năng suất hoặc hiệu suất công việc, luật pháp quốc tế mà Việt Nam là nước thành viên ký kết, gia nhập…

- Ngoài ra, để tránh được hàng rào thương mại, thuế chống bán phá giá và vấn đề lao động cưỡng bức khi hội nhập quốc tế, cần tránh được lý do tăng giờ làm thêm để tăng thu nhập đủ sống khi xây dựng các quy định về thời giờ làm thêm.

Về tăng số giờ làm thêm cho công nhân ngành nhựa:

Kế thừa Bộ luật Lao động 1994, Bộ luật Lao động 2012 quy định giới hạn giờ làm thêm không quá 200 giờ trong một năm, trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định thì không quá 300 giờ trong một năm.

Trong quá trình xây dựng Bộ luật Lao động năm 2012, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng đã đề xuất phương án nâng giới hạn giờ làm thêm nhưng không được Quốc hội chấp thuận.

Do việc quyết định số giờ làm thêm tại Bộ luật Lao động thuộc thẩm quyền xem xét, quyết định của Quốc hội, nên trước mắt phải thực hiện theo quy định pháp luật hiện hành về giới hạn giờ làm thêm.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đề xuất phương án tăng giờ làm thêm trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật lao động  và  đang nghiên cứu, đánh giá thêm về cơ sở  khoa học, thực tiễn  về sức khỏe, việc làm, cân bằng công việc và cuộc sống... nhằm đạt được sự đồng thuận cao của xã hội trình Chính phủ trình Quốc hội quyết định.

127. Cử tri các tỉnh, thành phố: Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Sóc Trăng, Cần Thơ, An Giang, Tây Ninh, Đồng Tháp, Tiền Giang, Phú Thọ, Sơn La, Thái Nguyên, Trà Vinh, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Hà Nội, Bến Tre, Nghệ An, Bình Thuận, Sóc Trăng, Đắc Lắk, Đồng Tháp, Quảng Ngãi, Tiền Giang, Điện Biên, Bạc Liêu - Kiến nghị số 24, 160, 161, 162, 165)  kiến nghị:  Nhóm các kiến nghị đề nghị người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên được hưởng trợ cấp xã hội không phân biệt đang hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hay chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, hạ tuổi hưởng trợ cấp xã hội cho người cao tuổi xuống 75 tuổi và thực hiện trợ cấp theo Nghị định số 136/2013/NĐ-CP.

Trả lời:

a) Về kiến nghị toàn bộ người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 17 Luật Người cao tuổi thì đối tượng người cao tuổi được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng là người từ đủ 80 tuổi trở lên không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng. Đây là chính sách trợ giúp xã hội đối với người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên không có nguồn thu nhập như lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội hàng tháng, nhằm hỗ trợ người cao tuổi bớt khó khăn trong cuộc sống, không phải là chính sách “ưu đãi” người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên nói chung. Vì vậy, người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên đã có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng thì không được hưởng.

b) Về kiến nghị hạ độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội xuống 75 tuổi

Trong thời gian qua, cử tri đã nhiều lần kiến nghị hạ tuổi hưởng trợ cấp xã hội đối với người cao tuổi từ 80 tuổi xuống 75 tuổi, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã nghiên cứu, đề xuất dự thảo Nghị định quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với Người cao tuổi từ 75 đến 80 tuổi là dân tộc thiểu số, người cao tuổi ở vùng biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Người cao tuổi, người cao tuổi từ đủ 75 đến 80 tuổi là người dân tộc thiểu số, người cao tuổi ở vùng biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn không thuộc độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội nên chưa thể quy định nội dung này. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục nghiên cứu, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội về việc hạ độ tuổi khi có điều kiện.

128. Cử tri các tỉnh Hưng Yên, Thành phố Hà Nội, Long An, Quảng Nam - Kiến nghị số 171, 174, 178, 179) kiến nghị: Nhóm kiến nghị về việc nâng mức trợ cấp xã hội đối với người cao tuổi, trẻ em khuyết tật, nâng mức trợ giúp đột xuất; mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội đối với người đơn thân nuôi con nhỏ, người cao tuổi thuộc hộ cận nghèo, trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại không có khả năng nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật.

Trả lời:

Trong thời gian qua Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã nhiều lần trình Chính phủ ban hành văn bản mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội, điều chỉnh tăng mức trợ cấp, mức trợ giúp đột xuất cho các đối tượng bảo trợ xã hội trong đó có người cao tuổi, trẻ em khuyết tật, người khuyết tật, trẻ em mồ côi. Gần đây nhất Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 nâng mức trợ cấp xã hội, trong đó nâng mức chuẩn trợ cấp xã hội từ 180.000 đồng lên 270.000 đồng. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể đối tượng được hưởng hệ số khác nhau, hệ số 1-4 tùy từng hoàn cảnh khó khăn của đối tượng. Việc nâng mức chuẩn trợ cấp cho các đối tượng lên đồng loạt 270.000 đồng/người/tháng và thực hiện đầy đủ các chính sách quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP trong bối cảnh khó khăn về ngân sách là sự cố gắng lớn của Chính phủ. Vì vậy, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội xin nghiên cứu ý kiến này để trình cơ quan có thẩm quyền vào thời gian thích hợp.

129. Cử tri các tỉnh Tây Ninh, Trà Vinh và Bắc Kạn kiến nghị: Nhóm kiến nghị về chính sách hỗ trợ chi phí mai táng đối với người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên, tăng mức trợ cấp tử tuất vì hiện nay còn quá thấp.

Trả lời:

Theo quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 thì ngoài đối tượng người cao tuổi đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp hàng tháng khác cũng được hỗ trợ chi phí mai táng khi chết. Nghị định cũng quy định chi tiết hồ sơ, thủ tục hỗ trợ chi phí mai táng. Đồng thời, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã có công văn số 4967/BHXH-CSXH ngày 12/12/2016 hướng dẫn ra quyết định thôi hưởng trợ cấp tuất hàng tháng để thực hiện hỗ trợ chi phí mai táng đối với người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên.

130. Cử tri tỉnh Ninh Bình, Ninh Thuận kiến nghị: Về thực hiện chính sách giảm giá vé cho người cao tuổi khi tham gia giao thông, giá vé dịch vụ thăm quan di tích lịch sử văn hóa, bảo tàng, danh lam thắng cảnh; tập luyện thể dục thể thao tại các cơ sở thể dục thể thao có bán vé hoặc thu phí dịch vụ  theo Nghị định số 06/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật người cao tuổi quy định.

Trả lời:

Chính sách miễn giảm giá vé, giá dịch vụ cho người cao tuổi không thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội. Đề nghị Ban Dân nguyện chuyển các kiến nghị này đến Bộ Giao thông vận tải, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch để trả lời cử tri.

131. Cử tri tỉnh Phú Yên  kiến nghị: Người già từ 75 tuổi đến 79 tuổi chưa được hưởng trợ cấp người cao tuổi, đề nghị nghiên cứu cho những người ở trong độ tuổi này được hưởng trợ cấp bảo hiểm y tế.

Trả lời:

Chính sách cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho người cao tuổi từ 75 tuổi đến 79 tuổi không thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Đề nghị Ban Dân nguyện chuyển kiến nghị này đến Bộ Y tế, Bảo hiểm xã hội Việt Nam nghiên cứu, trả lời cử tri.

132. Cử tri tỉnh Bến Tre kiến nghị: Quan tâm triển khai Luật Người cao tuổi đối với các quy định về đầu tư khoa Lão khoa, phòng khám, chữa bệnh dành riêng cho người cao tuổi tại các bệnh viện; thực hiện chính sách khám sức khỏe, khám bệnh tại nhà đối với người cao tuổi neo đơn, nhất là người cao tuổi thuộc diện chính sách, không thể đến cơ sở khám chữa bệnh.

Trả lời:

Chính sách chăm sóc sức khỏe đối với người cao tuổi không thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Đề nghị Ban Dân nguyện chuyển kiến nghị này đến Bộ Y tế nghiên cứu, trả lời.

133. Cử tri tỉnh Bắc Kạn kiến nghị: Ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về hỗ trợ đột xuất quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội; hướng dẫn cụ thể về dạng khuyết tật khác quy định tại Nghị định số 28/2012/NĐ-CP hướng dẫn Luật người khuyết tật để các địa phương thuận lợi trong tổ chức thực hiện.

Đề nghị bổ sung người khuyết tật nặng không nơi nương tựa, không tự lo được cuộc sống; trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ, nhưng người còn lại không có khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật được tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội.

Trả lời:

Nghị định số 136/2013/NĐ-CP đã quy định chi tiết về chế độ, chính sách, thủ tục, hồ sơ hỗ trợ đột xuất nên không cần văn bản hướng dẫn chi tiết, cụ thể. Dạng khuyết tật khác quy định tại Nghị định số 28/2012/NĐ-CP cũng đã được hướng dẫn tại các Thông tư liên quan nên không cần văn bản hướng dẫn chi tiết, cụ thể. Trong quá trình các địa phương triển khai thực hiện các quy định trên nếu có khó khăn, vướng mắc thì phản ánh về Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội để được hướng dẫn cụ thể.

Đối với đối tượng được chăm sóc tại cơ sở bảo trợ xã hội như cử tri nêu trên đã được quy định cụ thể tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP, Nghị định số 68/2008/NĐ-CP quy định điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở bảo trợ xã hội và Nghị định số 81/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2008/NĐ-CP.

134. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị: Luật Người cao tuổi đã ban hành và có hiệu lực pháp luật nhưng có nhiều điểm mà văn bản hướng dẫn chưa đề cập cụ thể. Ví dụ: “điểm e, khoản 1, Điều 3 quy định: Người cao tuổi được miễn các khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội, trừ trường hợp tự nguyện. Nhưng chưa có văn bản hướng dẫn là miễn các khoản đóng góp nào?

Trả lời:

Điểm e, Khoản 1, Điều 3 Luật Người cao tuổi đã quy định cụ thể người cao tuổi “được miễn các khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội, trừ trường hợp tự nguyện đóng góp” nên không cần hướng dẫn thêm.

135. Cử tri các  tỉnh: Bắc Kạn, Quảng Nam, Kiên Giang, Long An, Quảng Ninh, Tây Ninh, Quảng Bình, Nghệ An, Điện Biên - Kiến nghị số 163, 164, 180) kiến nghị: Nhóm kiến nghị về bộ công cụ điều tra, rà soát xác định hộ nghèo.

Trả lời:

Thực hiện Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020, ngày 28/6/2016 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 17/2016/TT-BLĐBTXH về việc hướng dẫn rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020. Bộ công cụ và quy trình đánh giá được xây dựng để đánh giá về giá trị sử dụng của hộ gia đình (không đánh giá về giá trị tài sản), qua đó xác định mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của các thành viên trong hộ, do đó, không cần thiết phải xác định mức điểm đánh giá theo giá trị của từng loại tài sản. Và việc quy định mức điểm cho điểm để đánh giá tài sản, ước lượng mức thu nhập của hộ gia đình do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng dựa trên kết quả thống kê, khảo sát mức sống hộ gia đình của các vùng trên toàn quốc do Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thực hiện; các chỉ tiêu, mức điểm cho từng chỉ tiêu được Tổng cục Thống kê nghiên cứu, xây dựng chặt chẽ, khoa học dựa trên những yếu tố chung nhất của từng vùng, phù hợp với những đặc điểm cơ bản của các hộ gia đình sinh sống trên địa bàn, do đó, về cơ bản các chỉ tiêu, mức điểm đưa ra trong bộ công cụ và quy trình điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 đã phù hợp với đặc điểm chung từng vùng trên cả nước. Tuy nhiên, sẽ vẫn còn có những trường hợp đặc thù, cá biệt mà bộ công cụ và quy trình điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm chưa thể phản ánh đúng thực trạng của hộ gia đình, do đó, cần đến sự tham gia của cán bộ cơ sở (cấp xã và thôn, bản...) và đại diện các hộ gia đình trên địa bàn trong quá trình thống nhất kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm tại cơ sở.

Đối với việc xem xét, đánh giá tài sản hộ gia đình qua điều tra, rà soát hằng năm để đảm bảo thời gian được thụ hưởng chính sách hỗ trợ giảm nghèo của hộ nghèo, hộ cận nghèo: Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg đã quy định về việc thực hiện điều tra toàn diện các hộ gia đình trên cả nước chỉ tiến hành vào các thời điểm đầu kỳ (cuối năm 2015), giữa kỳ (cuối năm 2018) và cuối kỳ (cuối năm 2020); đối với các năm còn lại chỉ thực hiện việc rà soát, đánh giá đối với những hộ do gặp biến cố đột xuất trong năm dẫn đến khả năng trở thành hộ nghèo, hộ cận nghèo để công nhận, đưa vào danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo của địa phương để thụ hưởng các chính sách hỗ trợ của Đảng và Nhà nước và rà soát, đánh giá những hộ có khả năng thoát nghèo, thoát cận nghèo trên địa bàn để theo dõi, đánh giá mức độ thực hiện mục tiêu giảm nghèo của từng địa phương cũng như của cả nước.

136. Cử tri tỉnh Long An, Quảng kiến nghị:  Nhà nước cần có chính sách giảm nghèo bền vững, tạo điều kiện cho các hộ nghèo tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi để phát triển sản xuất và thoát nghèo; xem xét nâng hạn mức cho vay ưu đãi đối với chương trình cho vay hộ giảm nghèo phát triển kinh tế khu vực nông nghiệp; đồng thời mở rộng đối tượng là hộ nông dân cũng được vay các chương trình ưu đãi cho hộ nghèo.

Trả lời:

Trong thời gian vừa qua, Chính phủ đã hết sức quan tâm để tạo điều kiện cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi để phát triển sản xuất và thoát nghèo thông qua việc ban hành các văn bản như: Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác; Quyết định 755/QĐ-TTg ngày 20/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc tiểu số nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; Quyết định số 54/2012/QĐ-TTg ngày 04/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ DTTS đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012 - 2015; Quyết định số 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ cận nghèo; Quyết định số 28/2015/QĐ-TTg ngày 21/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ mới thoát nghèo…

Căn cứ từ nhu cầu thực tiễn, ngày 26/4/2014 Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội đã ban hành Quyết định số 32/QĐ-HĐQT về việc nâng mức cho vay tối đa đối với hộ nghèo và hộ cận nghèo từ 30 triệu đồng/hộ lên 50 triệu đồng/hộ để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh. Mức cho vay cụ thể đối với từng hộ được căn cứ vào nhu cầu vay vốn và phương án sử dụng vốn vay khả thi của hộ vay.

Liên quan đến việc mở rộng đối tượng cho vay là hộ nông dân được vay các chương trình ưu đãi cho hộ nghèo: Trong điều kiện nguồn lực có hạn như hiện nay, việc mở rộng đối tượng cho vay là hộ nông dân được vay các chương trình ưu đãi cho hộ nghèo là chưa thực hiện được. Bởi chương trình tín dụng ưu đãi nhằm giúp hộ nghèo, hộ cận nghèo và đối tượng chính sách có điều kiện tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sống, vươn lên thoát nghèo, góp phần thực hiện chính sách phát triển kinh tế gắn liền với xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội

Đối với các đối tượng là hộ nông dân không phải là hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, Chính phủ đã ban hành Nghị định 55/2015/NĐ-CP ngày 09/06/2015 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp- nông thôn, trong đó quy định chi tiết về đối tượng, mức cho vay, mục đích sử dụng vốn vay và thời gian cho vay với phương châm ưu tiên, ưu đãi hơn so với cho vay với các đối tượng vay thương mại khác.

   137. Cử tri tỉnh Tây Ninh, Trà Vinh kiến nghị: Đề nghị thực hiện chính sách hỗ trợ hộ nghèo khó khăn về nhà ở của thị trấn như chính sách hỗ trợ hộ nghèo ở xã.

Trả lời:

Theo quy định tại Quyết định 33/2015/QĐ-TTg ngày 10/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ Về chính sách hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015 (chương trình hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTG giai đoạn 2), trong đó đã quy định cụ thể chính sách hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015 được áp dụng đối với các hộ thuộc diện đối tượng theo quy định của Quyết định này đang cư trú tại khu vực nông thôn hoặc đang cư trú tại các thôn, làng, buôn, bản, ấp, phum, sóc (gọi chung là thôn) trực thuộc phường, thị trấn hoặc xã trực thuộc thị xã, thành phố thuộc tỉnh nhưng sinh sống chủ yếu bằng nghề nông, lâm, ngư nghiệp.

138. Cử tri tỉnh Nghệ An, Quảng Ngãi kiến nghị: Đề nghị Chính phủ có phương án nâng mức hỗ trợ cho các hộ nghèo để phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, có chính sách hỗ trợ BHYT đối với hộ cận nghèo; Thời gian qua, nhiều hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số miền núi tỉnh Quảng Ngãi đã tiếp nhận được hỗ trợ và đã vươn lên thoát nghèo, cải thiện đời sống. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các chương trình, cử tri nhận thấy có không ít đối tượng có tư tưởng ỷ lại, muốn thuộc đối tượng hộ nghèo để nhận sự hỗ trợ của Nhà nước; một số trường hợp đã thoát nghèo thì chưa có sự hỗ trợ tiếp theo nên có nguy cơ tái nghèo… dẫn đến tâm lý so bì, không tự chủ vươn lên thoát nghèo bền vững. Cử tri đề nghị cùng với chính sách hiện hành, Chính phủ cần có cơ chế hỗ trợ khuyến khích hộ thoát nghèo tiếp tục có điều kiện sản xuất, thâm canh, phát triển kinh tế để vươn lên thoát nghèo bền vững (triệt tiêu nguy cơ tái nghèo), tạo hiệu ứng xã hội hiệu quả để người khác thay đổi nhận thức, từ bỏ tâm lý ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, làm cho mục tiêu của chương trình giảm nghèo bền vững đạt mục tiêu.

Trả lời:

Theo tinh thần chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành rà soát, tích hợp, sửa đổi, bổ sung các chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung chính sách, nguồn lực, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp. Hiện nay, một số chính sách giảm nghèo đã được tích hợp và nâng mức hỗ trợ như chính sách về giáo dục (Nghị định 116/2016/NĐ-CP ngày 18/7/2016 của Thủ tướng Chính phủ Quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn); chính sách về trợ giúp pháp lý cho người nghèo (Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg ngày 08/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ); chính sách về tín dụng cũng đã được nâng mức cho vay đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo (Quyết định số 32/QĐ-HĐQT về việc nâng mức cho vay tối đa đối với hộ nghèo và hộ cận nghèo từ 30 triệu đồng/hộ lên 50 triệu đồng/hộ); chính sách về y tế cho hộ cận nghèo (Quyết định 705/QĐ-TTg ngày 08/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ) hoặc chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất cũng đang được điều chỉnh theo hướng nâng mức hỗ trợ cho người nghèo áp dụng cho giai đoạn 2016-2020…

Đồng thời chính sách giảm nghèo cũng đã mở rộng đối tượng thụ hưởng cho hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, tạo điều kiện cho hộ thoát nghèo bền vững (chính sách y tế, tín dụng…), cụ thể:

Quyết định 797/2012/QĐ-TTg ngày 26/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ Nâng mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho người thuộc hộ gia đình cận nghèo.

Quyết định 705/QĐ-TTg ngày 08/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ nâng mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho một số đối tượng người thuộc hộ cận nghèo.

Quyết định 28/2015/QĐ-TTg ngày 21/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ về Tín dụng đối với hộ mới thoát nghèo.

Để khuyến khích hộ nghèo, người nghèo tích cực chủ động vươn lên thoát nghèo, chống tư tưởng truông chờ ỷ lại, Chính phủ đang chỉ đạo các Bộ, ngành rà soát sửa đổi lại các chính sách giảm nghèo theo hướng giảm dần các chính sách hỗ trợ cho không, tăng dần các chính sách hỗ trợ cho vay hoặc hỗ trợ có điều kiện, có thời gian nhất định; nghiên cứu đề xuất Chính phủ có cơ chế, chính sách thưởng cho các địa phương, các hộ đăng ký thoát nghèo.

139. Cử tri tỉnh Hà Nam kiến nghị: Trong những năm vừa qua Nhà nước rất quan tâm đến các gia đình hộ nghèo, hộ cận nghèo như hỗ trợ: tiền điện, trợ cấp tiền, gạo để các hộ nghèo, cận nghèo ăn tết. Xong từ thực tế, nguyên nhân dẫn đến nghèo ở nhiều góc độ khác nhau. Do vậy, cử tri đề nghị Nhà nước cần nghiên cứu từ việc phân loại hộ nghèo, cận nghèo, có chính sách cụ thể, sát với đặc điểm của từng đối tượng để có cơ chế phù hợp (ví dụ: hộ nghèo thiếu vốn cần được vay vốn cũng như định hướng nghề cụ thể để họ sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay, hoặc hộ nghèo có lao động nhưng chưa có việc làm, cần chính sách đào tạo nghề…). Mặt khác, chính sách đối với hộ nghèo và cận nghèo còn bất bình đẳng, hộ nghèo được nhiều chính sách của nhà nước trong khi mức thu nhập của hộ nghèo và cận nghèo không có chênh lệch lớn. Nhà nước cần có cơ chế riêng cho hộ nghèo, cận nghèo, hướng dẫn cho họ cách kiếm sống để họ tự vươn lên chứ không phải chỉ hỗ trợ để họ ỷ lại vào Nhà nước .

Trả lời:

Thực hiện Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 17/2016/TT-BLĐTBXH ngày 28/6/2016 hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020, theo đó các hộ nghèo, hộ cận nghèo được rà soát và phân loại theo thu nhập và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, vệ sinh và tiếp cận thông tin).

Trên cơ sở kết quả rà soát này, các tỉnh, thành phố xây dựng kế hoạch thực hiện mục tiêu giảm nghèo trên địa bàn theo hướng:

Đối với những hộ nghèo về thu nhập (có thu nhập bình quân dưới chuẩn nghèo) thì thực hiện các chính sách hỗ trợ về phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế, nhân rộng mô hình giảm nghèo; kết hợp hướng dẫn cách làm ăn, cho vay vốn tín dụng ưu đãi … để hộ tăng thu nhập, thoát nghèo bền vững.

Đối với những hộ nghèo thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cần thực hiện các chính sách hỗ trợ tăng thu nhập để hộ có điều kiện cải thiện cuộc sống, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ; thực hiện các chính sách đầu tư vùng để cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng phục vụ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản; đồng thời có các giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ nhân dân nói chung và người nghèo nói riêng.

Bên cạnh việc tiếp tục thực hiện các chính sách giảm nghèo, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, với các cơ chế mới tạo điều kiện để hộ nghèo, hộ cận nghèo và cộng đồng tham gia như cơ chế đặc thù trong quản lý đầu tư xây dựng; cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo thông qua dự án của cộng đồng, có sự đóng góp đối tượng tham gia dự án, đồng thời thực hiện cơ chế vốn thu hồi, luân chuyển. Theo đó, hộ nghèo, hộ cận nghèo được tìm hiểu nhu cầu, khả năng hiện có (về vốn con người, vốn tài nguyên, vốn tài chính…) trước khi tham gia dự án. Sự tham gia đầy đủ của hộ nghèo, hộ cận nghèo trong cả quá trình xây dựng dự án, tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện dự án sẽ góp phần nâng cao năng lực, trách nhiệm của hộ, giảm tính ỷ lại vào nhà nước của hộ nghèo, hộ cận nghèo.

140. Cử tri tỉnh Hà Giang kiến nghị:  Đề nghị Chính phủ tiếp tục đầu tư nguồn lực tập trung cho Chương trình giảm nghèo về vững ở các tỉnh nghèo, biên giới và xem xét điều chỉnh cơ chế hỗ trợ hộ nghèo thành chính sách tín dụng hộ nghèo hợp lý, nhằm khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại, phát huy tinh thần trách nhiệm vượt khó vươn lên của nhân dân.

Trả lời:

Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 được phê duyệt với tổng kinh phí 41.449 tỷ đồng, trong đó trên 90% kinh phí hỗ trợ cho các địa bàn khó khăn (huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, thôn, bản đặc biệt khó khăn). Đây là quyết tâm lớn của Chính phủ đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo của các vùng nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền, nhóm dân cư.

Theo chỉ đạo của Quốc hội tại Nghị quyết số 76/2014/QH13 ngày 24/6/2014 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo đến năm 2020, Chính phủ đã tập trung công tác rà soát, đề xuất sửa đổi  bổ sung cơ chế chính sách giảm nghèo theo hướng giảm dần các chính sách hỗ trợ cho không, tăng chính sách hỗ trợ có điều kiện (vay vốn tín dụng ưu đãi), đến nay nhiều chính sách đã được tích hợp và sửa đổi phù hợp đảm bảo hỗ trợ có hiệu quả cho đối tượng, khắc phục tư tưởng trông chờ ỷ lại, như chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo đã được thực hiện bằng 100% nguồn vốn tín dụng; chính sách giáo dục, nhóm chính sách dân tộc thiểu số cũng được tích hợp lại; bãi bỏ chính sách hỗ trợ dầu hỏa thắp sáng; đề xuất thay đổi phương thức thực hiện chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn theo Quyết định 102/2009/QĐ-TTg.

141. Cử tri tỉnh Bạc Liêu, Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị chính sách xóa nghèo quy định thời hạn 12 tháng xóa, quy định thời gian như vậy là quá ngắn, vì khi hộ nghèo nhận được tiền hỗ trợ đã mất gần năm tháng, nên khó có khả năng thực hiện đúng quy định. Đề nghị xem lại; Đề nghị việc thực hiện giao chỉ tiêu thoát nghèo là chưa phù hợp, bởi các hộ nhận được các chế độ, chính sách hỗ trợ thoát nghèo chưa kịp phát huy hiệu quả thì lại phải công nhận là hộ thoát nghèo để đảm bảo thực hiện chỉ tiêu cấp trên giao; điều này tiềm ẩn nguy cơ tái nghèo cao, do vậy đề nghị Bộ lùi thời gian thực hiện các chỉ tiêu thoát nghèo 2016 sang thực hiện ở năm 2017 để các chính sách hỗ trợ thoát nghèo có thời gian phát huy hiệu quả, giúp việc thoát nghèo đảm bảo đúng thực tế và bền vững, tránh tình trạng chạy theo thành tích. Bên cạnh đó, kiến nghị cần xem xét, thực hiện tổng rà soát, thống kê và có chủ trương thu hẹp các chương trình hỗ trợ dành cho các đối tượng là hộ nghèo trong giai đoạn hiện nay để việc giảm nghèo trở nên thiết thực, giảm nghèo bền vững, tránh tái nghèo vì thực tế, chính sách hiện nay cũng còn bộc lộ hạn chế như: tạo tâm lý ỷ lại trong một bộ phận hộ nghèo, ngày càng có nhiều hộ không muốn thoát nghèo trong khi đã có thu nhập trung bình.

Trả lời:

Các chính sách giảm nghèo được thực hiện hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo trong danh sách rà soát hàng năm trên địa bàn. Việc rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo nhằm đánh giá thực trạng nghèo trên địa bàn và là căn cứ xác định mục tiêu giảm nghèo, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội hàng năm. Cơ quan tham mưu cấp tỉnh cần dựa trên thực trạng nghèo để tham mưu HĐND, UBND tỉnh về mục tiêu giảm nghèo hàng năm một cách khả thi, đồng thời đề xuất các giải pháp giảm nghèo đồng bộ để thực hiện mục tiêu giảm nghèo đề ra, không chạy theo thành tích, tạo điều kiện để hộ nghèo được hỗ trợ hiệu quả từ các chính sách giảm nghèo của nhà nước và thoát nghèo bền vững.

Đối với những hộ có khả năng thoát nghèo, thoát cận nghèo trong năm, chính quyền địa phương cần có giải pháp hỗ trợ tập trung để tạo điều kiện để hộ phát triển sản xuất, tham gia mô hình giảm nghèo hiệu quả, tăng thu nhập và tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, giúp hộ thoát nghèo bền vững. Địa phương cần đánh giá đúng thực trạng giảm nghèo hàng năm, không chạy theo thành tích, tạo điều kiện để hộ nghèo được hỗ trợ hiệu quả từ các chính sách giảm nghèo của nhà nước và thoát nghèo bền vững.

Trong giai đoạn 2016-2020, các chính sách giảm nghèo cũng được rà soát, tích hợp, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, giảm chính sách hỗ trợ cho không, tăng các chính sách hỗ trợ có điều kiện, thúc đẩy tinh thần tự chủ của hộ trong việc tham gia các hoạt động sản xuất, tạo thu nhập, hướng đến thoát nghèo bền vững, cụ thể như chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo đã được thực hiện bằng 100% nguồn vốn tín dụng; chính sách giáo dục, nhóm chính sách dân tộc thiểu số cũng được tích hợp lại; bãi bỏ chính sách hỗ trợ dầu hỏa thắp sáng; đề xuất thay đổi phương thức thực hiện chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn theo Quyết định 102/2009/QĐ-TTg; các mô hình hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế, mô hình giảm nghèo hiệu quả, mô hình tạo việc làm công trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 cũng được thực hiện theo cơ chế mới nhằm thu hút sự tham gia, phát huy nội lực của cộng đồng hướng tới thoát nghèo bền vững.

142. Cử tri tỉnh Thừa Thiên - Huế kiến nghị: Đề nghị tiếp tục thực hiện cơ chế, chính sách hỗ trợ người dân các xã vùng bãi ngang ven biển có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn để sớm ổn định cuộc sống.

Trả lời:

Theo quy định hiện nay, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo vẫn tiếp tục được thụ hưởng các chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội như y tế, giáo dục, tín dụng… Bên cạnh đó, ngoài việc được hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo theo Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, còn được hưởng chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo để người dân tăng thu nhập, ổn định cuộc sống và sớm thoát nghèo.

143. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sớm trình Chính phủ bổ sung huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La vào danh sách các huyện hưởng cơ chế, chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện nghèo (Cử tri tỉnh Sơn La - Kiến nghị số 189)

Trả lời:

Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2115/QĐ-TTg ngày 7/11/2016 về tiêu chí huyện nghèo áp dụng cho giai đoạn 2017-2020. Trên cơ sở đó, ngày 17/11/2016 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có Công văn số 4604/LĐTBXH-VPQGGN hướng dẫn các địa phương tổ chức rà soát, đánh giá thực trạng các huyện nghèo trên địa bàn, trong đó có huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.

Hiện nay Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang tổng hợp danh sách các huyện nghèo và sẽ tổ chức thẩm định các huyện trước khi trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.

144. Cử tri thành phố Hải phòng kiến nghị: Những năm qua, công tác đảm bảo an sinh xã hội được thành phố Hải Phòng rất quan tâm, kịp thời giải quyết khó khăn cho các đối tượng chính sách, đối tượng bảo trợ xã hội. Những kết quả đạt được đã góp phần giữ ổn định tình hình xã hội, tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh của thành phố. Tuy nhiên, nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội của thành phố Hải Phòng nói riêng và các địa phương khác nói chung còn không ít khó khăn, số doanh nghiệp nợ đọng bảo hiểm xã hội giảm chậm, kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững. Cử tri đề nghị Chính phủ tiếp tục chỉ đạo cụ thể, kịp thời để các địa phương giải quyết những khó khăn trên, thực hiện tốt công tác bảo đảm an sinh xã hội trong thời gian tới (Cử tri thành phố Hải Phòng - Kiến nghị số 190).

Trả lời:

Để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững trong giai đoạn 2016-2020, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành tập trung rà soát, sửa đổi bổ sung các chính sách giảm nghèo nhằm hỗ trợ hiệu quả cho hộ nghèo, hộ cận nghèo; tập trung, ưu tiên nguồn lực Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; ban hành các cơ chế mới trong thực hiện Chương trình như cơ chế đặc thù trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; cơ chế thanh quyết toán đối với các hoạt động do cộng đồng tự thực hiện…

Trên cơ sở các chính sách, khung Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2016-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đề nghị thành phố Hải Phòng xây dựng kế hoạch thực hiện mục tiêu giảm nghèo trên địa bàn trên cơ sở phân tích thực trạng nghèo qua kết quả tổng điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều, đề xuất các giải pháp hỗ trợ phù hợp với thực trạng nghèo về thu nhập và thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, cụ thể:

Đối với những hộ nghèo về thu nhập (có thu nhập bình quân dưới chuẩn nghèo) thì thực hiện các chính sách hỗ trợ về phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế, nhân rộng mô hình giảm nghèo; kết hợp hướng dẫn cách làm ăn, cho vay vốn tín dụng ưu đãi... để hộ tăng thu nhập, thoát nghèo bền vững.

Đối với những hộ nghèo thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cần thực hiện các chính sách hỗ trợ tăng thu nhập để hộ có điều kiện cải thiện cuộc sống, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ; thực hiện các chính sách đầu tư vùng để cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng phục vụ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản; đồng thời có các giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ nhân dân nói chung và người nghèo nói riêng.

Tập trung nguồn lực, giải pháp thực hiện các dự án giảm nghèo thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, thực hiện các cơ chế mới về đầu tư đặc thù rút gọn đối với các công trình hạ tầng dưới 5 tỷ đồng, phân cấp mạnh cho cơ sở, trao quyền cho cộng đồng để thực hiện; thực hiện mô hình việc làm công thông qua đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn; xây dựng và nhân rộng các mô hình giảm nghèo hiệu quả; đồng thời nâng cao năng lực cho cán bộ, cộng đồng; tuyên truyền sâu rộng đến các cấp, ngành, người dân để huy động sự tham gia, đóng góp của toàn xã hội trong công cuộc thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững.

145. Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: Cử tri cho rằng Quyết định số 234/QĐ-TTg ngày 05/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em giai đoạn 2016-2020 đã thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với trẻ em, tuy nhiên những năm gần đây đã xảy ra nhiều vụ trẻ em bị đuối nước do các em chưa được học bơi. Đề nghị Chính phủ ban hành những quy định mang tính bắt buộc các cấp chính quyền đầu tư kinh phí đưa công trình xây dựng bể bơi, khu vui chơi, giải trí vào công trình xây dựng cấp bách, đồng thời mở các lớp dạy bơi cho trẻ em nhất là vùng nông thôn.

Trả lời:

Thực trạng tình hình trẻ em tử vong do đuối nước

Đuối nước là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do tai nạn thương tích ở trẻ em và người chưa thành niên tại Việt Nam. Tỷ lệ tử vong do đuối nước của Việt Nam cao nhất trong khu vực và cao gấp 10 lần các nước phát triển. Tỷ lệ tử vong do đuối nước ở trẻ em chiếm khoảng 50% các trường hợp tử vong do tai nạn thương tích. Trung bình mỗi năm trong giai đoạn 2010 - 2013 có khoảng 3.300 trẻ em và người chưa thành niên từ 0-19 tuổi bị tử vong do đuối nước (theo Báo cáo thống kê tử vong do tai nạn thương tích của Bộ Y tế). Tử vong do đuối nước ở trẻ em xảy ra chủ yếu tại cộng đồng chiếm 77,6%, 22,4% tại gia đình và 1% tại trường học. Trẻ em trong các hộ gia đình nghèo, gia đình cận nghèo và trẻ em sống tại các vùng khó khăn chiếm tỷ lệ tử vong do đuối nước cao hơn. Hiện nay, mới có 30% trẻ em trong lứa tuổi tiểu học và trung học cơ sở biết bơi.  Trong 9 tháng đầu năm 2016, tình hình đuối nước trẻ em chưa giảm, theo báo cáo các tỉnh, thành phố có 2.467 trẻ em bị tử vong do tai nạn thương tích, trong đó có 1.462 trẻ em bị tử vong do đuối nước. 

Một số hoạt động, giải pháp đã được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các Bộ ngành triển khai:

- Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 234/QĐ-TTg ngày 05/02/2016, trong đó có nội dung về phòng chống đuối nước trẻ em với mục tiêu: Giảm 6% số trẻ em bị tử vong do đuối nước so với năm 2015; 40% trẻ em trong độ tuổi tiểu học và trung học cơ sở biết kỹ năng an toàn trong môi trường nước; 100% tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai thí điểm chương trình bơi an toàn cho trẻ em. Chương trình tập trung vào các hoạt động và giải pháp sau: xây dựng thí điểm, đánh giá và nhân rộng mô hình phòng, chống đuối nước trẻ em. Kiện toàn và phát triển mạng lưới dịch vụ đảm bảo an toàn cho trẻ em trong môi trường nước. Triển khai chương trình bơi an toàn cho trẻ em; Nghiên cứu, hướng dẫn sử dụng các thiết bị an toàn trong môi trường nước cho trẻ em; Xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp liên ngành về phòng, chống đuối nước trẻ em; Rà soát, hoàn thiện các quy định về an toàn giao thông đường thuỷ và an toàn trong môi trường nước cho trẻ em; Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định an toàn giao thông đường thuỷ và an toàn trong môi trường nước cho trẻ em. Trong Quyết định số 234/QĐ-TTg đã phân công rõ trách nhiệm của các bộ, ngành, cơ quan đối với công tác phòng chống đuối nước trẻ em.      

- Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã có văn bản hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện Quyết định số 234/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó chú trọng công tác phòng, chống đuối nước trẻ em, dạy bơi, dạy kỹ năng an toàn cho trẻ em. Đến nay, đã có 54/63 tỉnh, thành phố xây dựng Chương trình, kế hoạch phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em giai đoạn 2016 - 2020; trong đó 19/63 tỉnh, thành phố có bố trí kinh phí thực hiện chương trình này với tổng kinh phí dự kiến trên 64 tỷ đồng. Hiện nay đã có 25/63 tỉnh/thành phố triển khai các mô hình hoặc tổ chức các họat động dạy bơi cho trẻ em. Các hoạt động dạy bơi đã được Ủy ban nhân dân các cấp phê duyệt. Việc dạy bơi cho trẻ em được tổ chức tại bể bơi trung tâm thể thao cấp huyện, quận, bể bơi thông minh, bể bơi tự tạo. Tại một số tỉnh, Ủy ban nhân dân các cấp đã hỗ trợ 100% chi phí dạy bơi cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em thuộc hộ nghèo, cận nghèo, hỗ trợ chi phí đào tạo giáo viên dạy bơi. Đối với trẻ không thuộc đối tượng trên được hỗ trợ 30% cho phí dạy bơi cho trẻ em. Một số tỉnh như  Đà Nẵng, An Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu, một số quận của Hà Nội… đã hỗ trợ toàn bộ chi phí dạy bơi cho trẻ em tại các điểm dạy bơi.

- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có công văn số 1299/LĐTBXH–BVCSTE ngày 20/4/2016, về việc tăng cường chỉ đạo, thực hiện phòng, chống đuối nước trẻ em, đặc biệt vào dịp hè, trong đó chú trọng công tác dạy bơi, dạy kỹ năng an toàn trong môi trường nước và thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Ngày 16/5/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 17/CT-TTg về tăng cường chỉ đạo, thực hiện phòng, chống tai nạn thương tích và đuối nước cho học sinh, trẻ em.  Triển khai Tháng hành động vì trẻ em năm 2016 với chủ đề “Vì một môi trường an toàn, phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em” để tăng cường sự quan tâm của các cấp, chính quyền, xã hội, gia đình và trẻ em trong việc phòng, chống đuối nước cho trẻ em. Xây dựng Kế hoạch liên tịch phòng, chống đuối nước trẻ em giai đoạn 2016 – 2020, trong đó phân công trách nhiệm cụ thể của các ngành trong công tác phòng, chống đuối nước trẻ em.

- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các Bộ, ngành và tổ chức Y tế thế giới (WHO) rà soát các chính sách hỗ trợ phòng, chống đuối nước trẻ em và đã xây dựng dự thảo đề xuất chính sách hỗ trợ phòng, chống đuối nước trẻ em để trình Thủ tướng Chính phủ trong năm 2017. Nội dung của chính sách tập trung hỗ trợ chủ yếu vào các vấn đề sau:

+ Hỗ trợ dạy bơi, dạy kỹ năng an toàn trong môi trường nước cho trẻ em tại cộng đồng, tại trường học: Hỗ trợ trẻ em thuộc hộ gia đình nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em đang sinh sống tại các xã miền núi, biên giới, hải đảo, các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được học hơi, học kỹ năng an toàn trong môi trường nước tại các lớp ở cộng đồng, trường học, cơ sở thể dục thao công lập. Đối với trẻ em không thuộc đối tượng trên, tùy theo điều kiện của các địa phương sẽ hỗ trợ một phần chi phí cho việc học bơi, học kỹ năng an toàn trong môi trường nước.

+ Hỗ trợ kiện toàn đội ngũ giáo viên dạy bơi cho trẻ em tại địa phương, đặc biệt ưu tiên hỗ trợ cho các địa phương vùng biên giới, hải đảo, các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn để các giáo viên đảm bảo có khả năng dạy bơi cho trẻ em và dạy kỹ năng an toàn cho trẻ em.

+ Hỗ trợ kiện toàn cở sở hạ tầng cho việc dạy bơi cho trẻ em, trong đó ưu tiên  hỗ trợ bể bơi di động và bể bơi tự tạo tại các địa phương có điều kiện kinh tế khó khăn.

+ Hỗ trợ cải tạo môi trường an toàn phòng, chống đuối nước trẻ em, ưu tiên các địa phương biên giới hải đảo, các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

+ Hỗ trợ các điểm trông giữ trẻ nhỏ lứa tuổi mầm non tại các địa phương trong mùa lũ, các địa phương biên giới, hải đảo, các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, ngành liên quan xây dựng tài liệu hướng dẫn địa phương triển khai dạy bơi, dạy kỹ năng an toàn cho trẻ em trong môi trường nước và chỉ đạo các địa phương thực hiện.

-  Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 4285/QĐ-BVHTTDL phê duyệt Chương trình bơi an toàn, phòng, chống đuối nước trẻ em giai đoạn 2016 – 2020 của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, trong đó tăng cường sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền của ngành văn hóa thể thao du lịch đối với việc quản lý tổ chức dạy bơi và phát triển phong trào tập luyện bơi cho trẻ em;  nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ công chức, viên chức huấn luyênh, công tác viên, hướng dẫn viên của ngành văn hóa thể thao du lịch và các ngành đoàn thể liên quan về công tác phòng chống đuối nước trẻ em.

- Bộ Giao thông vận tải đã triển khai đào tạo, tập huấn cho cán bộ ngành giao thông vận tải, giáo viên trường tiểu học tại 3 vùng miền núi phía bắc, miền trung và đồng bằng sông Cửu Long về phòng chống đuối nước trẻ em. 

-  Bộ Giáo dục và đào tạo đã chỉ đạo ngành Giáo dục và Đào tạo tăng cường công tác phòng chống đuối nước trẻ em. Chỉ đạo việc dạy bơi cho học sinh trong trường học.

- Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai thực hiện “Mô hình bàn giao và quản lý trẻ em trong dịp hè phòng, chống đuối nước trẻ em”, tại các mô hình này sẽ tập trung hướng dẫn cho trẻ em kỹ năng an toàn trong môi trường nước, dạy bơi cho trẻ em và tổ chức vui chơi an toàn cho các em. Hội Nông dân xây dựng mô hình câu lạc bộ “Nam nông dân phòng chống đuối nước trẻ em”.

- Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp Bộ Giao thông vân tải, Giáo dục và Đào tạo, Văn hóa thể thao du lịch, Công An tổ chức các cuộc giám sát liên ngành về thực hiện công tác phòng, chống đuối nước trẻ em tại các địa phương, cụ thể về công tác dạy bơi, dạy kỹ năng an toàn trong môi trường, thực hiện quy định an toàn tại các bể bơi, các bến bãi tàu thuyền.

Giải pháp trong thời gian tới:

- Đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông, giáo dục, vận động xã hội nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng về phòng, chống đuối nước trẻ em cho các cấp, các ngành, cộng tác viên, cha mẹ, người chăm sóc trẻ và bản thân trẻ em. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của gia đình trong việc quan tâm chăm sóc, quản lý trẻ em, đưa trẻ đi học bơi, học các kỹ năng an toàn trong môi trường nước.

- Tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn của các ngành, các cấp trong việc triển khai thực hiện Quyết định số 234/QĐ-TTg ngày 05/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em giai đoạn 2016 - 2020, trong đó có phòng, chống đuối nước trẻ em.  

- Tăng cường sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc phòng, chống đuối nước trẻ em, hỗ trợ việc dạy bơi, dạy kỹ năng an toàn trong môi trường nước cho trẻ em, kiện toàn mạng lưới dịch vụ dạy bơi cho trẻ, loại bỏ nguy cơ gây đuối nước cho trẻ tại cộng đồng, tại gia đình, hỗ trợ thực thi các quy định của pháp luật về an toàn đường thủy.

- Tăng cường đầu tư nguồn lực của Nhà nước và của từng địa phương cho công tác phòng, chống đuối nước trẻ em. Đặc biệt, các địa phương cần quan tâm đầu tư ngân sách của địa phương, đẩy mạnh xã hội hoá để xây dựng các bể bơi, hồ bơi đơn giản và dạy bơi cho trẻ em.

- Hoàn thiện đề xuất chính sách hỗ trợ phòng, chống đuối nước trẻ em và hướng dẫn các địa phương thực hiện. Quan tâm đến các chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, các cộng tác viên tham gia dạy bơi tại cộng đồng, đội ngũ giáo viên dạy bơi, cán bộ y tế tại bể bơi, các giám sát viên tại bể bơi, tại các địa điểm dạy bơi.

- Phối hợp với các ngành kiện toàn mạng lưới dịch vụ dạy bơi, dạy kỹ năng an toàn trong môi trường nước cho trẻ em; nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên dạy bơi, các tư vấn về phòng, chống đuối nước trẻ em, chất lượng giám sát của các giám sát viên tại bể bơi, bãi biển, sơ cấp cứu khi xảy ra tai nạn.

- Đẩy mạnh công tác phối hợp liên ngành về phòng, chống đuối nước trẻ em, trong đó tập trung triển khai Kế hoạch liên tịch phòng, chống đuối nước trẻ em. Triển khai xây dựng cơ chế phối hợp giữa các ngành trong việc tổ chức dạy bơi, dạy kỹ năng an toàn cho trẻ em tại trường học, tại cộng đồng. Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tiếp tục triển khai thực hiện “Mô hình bàn giao và quản lý trẻ em trong dịp hè, phòng, chống đuối nước trẻ em”. Trung ương đoàn xây dựng kế hoạch tổ chức Giải bơi thiếu nhi toàn quốc năm 2017.

- Tiếp tục triển khai xây dựng Ngôi nhà an toàn, Cộng đồng an toàn và Trường học an toàn nhằm loại bỏ nguy cơ gây đuối nước cho trẻ em; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện công tác phòng, chống đuối nước trẻ em tại các địa phương.

- Huy động sự tham gia của cộng đồng, các tổ chức, doanh nghiệp trong công tác phòng, chống đuối nước trẻ em đặc biệt là dạy bơi, dạy kỹ năng an toàn cho trẻ em trong môi trường nước.

146. Cử tri các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Giang, Điện Biên, Cà Mau, Bắc Ninh, Hà Tĩnh, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Vĩnh Long - Kiến nghị số 191, 192) kiến nghị: Trước tình trạng tệ nạn nghiện ma túy diễn biến ngày càng phức tạp, trong khi công tác lập hồ sơ đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gặp nhiều khó khăn, thủ tục rườm rà, phức tạp. Cử tri kiến nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề xuất Chính phủ sửa đổi Nghị định số 221/2013/NĐ-CP và các quy định pháp luật có liên quan cho phù hợp thực tiễn.

Trả lời:

Việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật xử lý hành chính thời gian qua gặp một số vướng mắc, dẫn đến một số địa phương gặp khó khăn trong việc lập được hồ sơ đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Để khắc phục tình trạng trên, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan đã sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy định liên quan đến công tác áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện đối với người nghiện ma túy, cụ thể:

- Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 221/2013 quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

- Nghị định số 56/2016/NĐ-CP ngày 29/6/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn;

- Nghị định số 90/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều trị các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế (thay thế Nghị định số 96/2012/NĐ-CP);

- Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 26/12/2014 Chính phủ về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới, trong đó có hướng dẫn việc thành lập cơ sở xã hội để tiếp nhận người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định trong thời gian lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

- Thông tư liên tịch 148/2014/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 08/10/2014 của Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định “quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; chế độ đối với người chưa thành niên, người tự nguyện chữa trị, cai nghiện tại Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội và tổ chức cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng”.

- Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA ngày 09/7/2015 của liên Bộ Y tế, Lao động - Thương binh và Xã hội và Công an quy định thẩm quyền, thủ tục, quy trình xác định tình trạng nghiện ma túy.

Cho đến nay, các quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy đã tương đối đầy đủ, cơ bản giải quyết được những tồn tại thời gian qua. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số vướng mắc, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, báo cáo Chính phủ đề xuất Quốc hội sửa đổi Luật xử lý vi phạm hành chính và các luật có liên quan cho phù hợp thực tiễn.

147. Cử tri các tỉnh: Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang kiến nghị: Quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã về chấm dứt áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn có thay thế được giấy chứng nhận đã chấp hành xong biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo Nghị định 111/2013/NĐ-CP không? đề nghị có hướng dẫn cụ thể.

Trả lời:

Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 của Chính phủ (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP) đã quy định cụ thể thành phần hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định là: nếu “đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy” thì phải có “Bản sao giấy chứng nhận đã chấp hành xong quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn”; nếu “bị chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy” theo khoản 16 Điều 1 Nghị định số 56/2016/NĐ-CP ngày 29/6/2016 của Chính phủ, thì phải có “bản sao Quyết định chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn”. Như vậy, đây là hai thành phần hồ sơ đối với 2 trường hợp riêng biệt, không thay thế cho nhau.

148. Cử tri tỉnh Bình Thuận, thành phố Hải Phòng, tỉnh Quảng Nam – (Kiến nghị số 194, 200) kiến nghị: Kiến nghị Chính phchỉ đạo các cơ quan tiến hành tố tụng rà soát các quy định pháp luật, tham mưu Chính phủ sửa đổi theo hướng có thể đưa các đối tượng vào khu cai nghiện tập trung rồi thực hiện các thủ tục hành chính, pháp lý sau; có biện pháp quyết liệt hơn trong công tác phòng, chống tệ nạn ma túy; đưa các đối tượng nghiện ma túy vào trại cai nghiện nhằm bảo đảm trật tự an toàn xã hội.

Trả lời:

a) Cử tri cho rằng “thủ tục hồ sơ xét duyệt các đối tượng nghiện ma túy để đưa vào khu cai nghiện tập trung theo Nghị định 221/2013/NĐ-CP còn chưa phù hợp”. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan tiến hành tố tụng rà soát các quy định pháp luật, tham mưu Chính phủ sửa đổi theo hướng có thể đưa các đối tượng vào khu cai nghiện tập trung rồi thực hiện các thủ tục hành chính, pháp lý sau.

Ngày 09/9/2016 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 136/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nghị định số 136/2016/NĐ-CP đã giải quyết được những điểm chưa phù hợp về thủ tục hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định tại Nghị định 221/2013/NĐ-CP.

Đối với kiến nghị “sửa đổi theo hướng có thể đưa các đối tượng vào khu cai nghiện tập trung rồi thực hiện các thủ tục hành chính, pháp lý sau”, vấn đề này thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin tiếp thu ý kiến của cử tri và sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, báo cáo Chính phủ đề xuất Quốc hội sửa đổi Luật xử lý vi phạm hành chính và các luật có liên quan.

b) Về kiến nghị Chính phủ xử phạt thật nghiêm những người buôn bán, vận chuyển ma túy.

Buôn bán, vận chuyển ma túy là hành vi phạm tội đặc biệt nguy hiểm đối với xã hội và pháp luật hết sức nghiêm khắc đối với hành vi này, thậm chí có hình phạt cách ly vĩnh viễn đối tượng mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy khỏi đời sống xã hội. Nghiện ma túy là tệ nạn xã hội, nhưng không phải là tội phạm và trong thời gian qua, Chính phủ, các Bộ ngành đã có nhiều chỉ đạo, giải pháp đổi mới, đồng bộ trong hỗ trợ, điều trị nghiện như khuyến khích người nghiện cai nghiện tự nguyện, giảm áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc...nhằm giúp đỡ người nghiện ma túy hòa nhập cộng đồng, vươn lên trong cuộc sống.

149. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Đề nghị sửa đổi Điều 10 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP theo hướng “đối với bác sĩ, y sĩ thì nghiệp vụ xác định tình trạng nghiện không nhất thiết phải có chứng chỉ mà chỉ cần được tập huấn và cấp chứng nhận là đủ.

Trả lời:

Tại Khoản 3 Điều 1 Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 của Chính phủ đã sửa đổi, bổ sung Điều 10 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP về thẩm quyền xác định tình trạng nghiện ma túy, theo đó “Người có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện là bác sỹ, y sĩ, được cấp chứng nhận hoặc chứng chỉ tập huấn về chẩn đoán, điều trị cắt cơn nghiện ma túy …”. Như vậy, Khoản 3 Điều 1 Nghị định số 136/2016/NĐ-CP đã giải quyết kiến nghị nêu trên của cử tri.

150. Cử tri tỉnh Bắc Kạn kiến nghị: Quy định về điều kiện của nơi xác định tình trạng nghiện ma túy không bảo đảm tính khả thi (ví dụ như Trạm y tế cấp xã). Do đó, đề nghị sửa đổi cho phù hợp, khả thi hơn.

Trả lời:

Quy định tại Điều 10 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP cho phép bác sĩ, y sĩ làm việc tại Trạm y tế cấp xã có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện nhằm bảo đảm thuận lợi, kịp thời cho công tác xác định tình trạng nghiện. Hướng dẫn về điều kiện của cơ sở xác định tình trạng nghiện thuộc thẩm quyền của Bộ Y tế, do đó Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin tiếp thu ý kiến của cử tri, tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Y tế rà soát sửa đổi, bổ sung điều kiện của cơ sở xác định tình trạng nghiện cho phù hợp thực tiễn.

151. Cử tri thành phố Hải Phòng, Bình Phước, Tuyên Quang kiến nghị: Đề nghị sửa đổi Luật phòng, chống ma túy cho phù hợp Hiến pháp 2013 và thống nhất với Luật xử lý vi phạm hành chính.

Trả lời:

Quy định chi tiết một số điều của Luật phòng, chống ma túy, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 135/2004/NĐ-CP hướng dẫn áp dụng biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2009/NĐ-CP hướng dẫn việc áp dụng biện pháp quản lý sau cai. Tuy nhiên, cả 2 Nghị định nêu trên không thống nhất với Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 và không phù hợp Hiến pháp 2013. Tiếp thu ý kiến của cử tri, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, báo cáo Chính phủ đề xuất Quốc hội sửa đổi Luật phòng, chống ma túy và các văn bản pháp luật khác có liên quan cho thống nhất với Luật xử lý vi phạm hành chính và phù hợp Hiến pháp 2013.

152. Cử tri tỉnh Bình Dương kiến nghị: Đề nghị các ngành chức năng tăng cường công tác tuyên truyền phòng, chống tệ nạn ma túy.

Trả lời:

Ngày 26/12/2014 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 98/NQ-CP trong đó xác định nhiệm vụ hàng đầu là “đẩy mạnh công tác tuyên truyền phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy”. Thực hiện Nghị quyết số 98/NQ-CP, các Bộ, ngành chức năng và các địa phương đã tích cực triển khai nhiều kế hoạch tuyên truyền sâu, rộng tới tất cả các nhóm đối tượng liên quan. Tuy nhiên, công tác phòng, chống tệ nạn ma túy là việc lâu dài, thường xuyên, liên tục và là nhiệm vụ của toàn xã hội, trước tình hình tệ nạn ma túy vẫn đang diễn biến phức tạp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tổng hợp tình hình báo cáo Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền phòng, chống tệ nạn ma túy theo chức năng, nhiệm vụ được giao.

153. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Xem xét ban hành Luật Phòng, chống mại dâm thay thế Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm do không còn phù hợp với các văn bản pháp luật mới.

Trả lời:

Qua hơn 10 năm thực hiện Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm, Nhà nước ta đã ban hành được một hệ thống chính sách, pháp luật tương đối đầy đủ, hiệu quả, góp phần đảm bảo trật tự xã hội. Công tác phòng, chống mại dâm ở các Bộ, ngành, địa phương, cơ sở đã có những chuyển biến tích cực, góp phần kìm chế sự gia tăng của tệ nạn mại dâm, không để mại dâm trở thành vấn đề bức xúc của xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác phòng, chống mại dâm đang đứng trước không ít khó khăn, thách thức: Vẫn còn những quan điểm, nhận thức trái chiều đối với vấn đề mại dâm, hệ thống pháp luật về phòng, chống mại dâm cũng đã bộc lộ những bất cập, không còn phù hợp yêu cầu của công tác này trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Từ các vấn đề trên, yêu cầu xây dựng Luật về phòng, chống mại dâm là hết sức cần thiết, làm cơ sở cho việc thực hiện các biện pháp, giải pháp về phòng, chống mại dâm cho phù hợp với thực tiễn hiện nay, góp phần đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thực hiện tốt các chính sách về bảo trợ xã hội; đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, đặc biệt trong các lĩnh vực liên quan như phòng, chống mua bán người, phòng, chống ma túy và HIV/AIDS.

Việc xây dựng dự án Luật phòng, chống mại dâm đã được đưa vào Chương trình công tác của Uỷ ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm và Chương trình công tác của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Dự kiến Báo cáo Chính phủ vào Quý IV năm 2017 và hoàn thiện dự án đưa vào Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội năm 2019.

154. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị:  Đề nghị sửa đổi, bổ sung Nghị định 221/2013/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; sửa đổi, bổ sung Nghị định 94/2010/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-LĐTBXH-BYT-BCA về cai nghiện tại gia đình, tại cộng đồng; đầu tư cơ sở vật chất, thuốc men để bảo đảm tính khả thi đối với công tác cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng.

Trả lời:

Ngày 19/9/2016 Chính phủ ban hành Nghị định 136/2016/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang phối hợp với các cơ quan liên quan trình Chính phủ ban hành Nghị định cai nghiện tự nguyện, trong đó sẽ quy định về công tác cai nghiện tại gia đình và cộng đồng là hình thức cung cấp dịch vụ công, với các điều kiện bảo đảm thực hiện mang tính khả thi cao, cơ bản sẽ giải quyết được những vấn đề mà cử tri nêu.

155. Cử tri tỉnh Tuyên Quang kiến nghị: Đề nghị sớm ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ người nghiện ma túy tự nguyện đăng ký tham gia các hình thức điều trị, cai nghiện theo quy định.

Trả lời:

Hiện nay đã có các văn bản quy định về cơ chế chính sách hỗ trợ cho người cai nghiện ma túy tự nguyện như: Nghị định 135/2004/NĐ-CP quy định chính sách cho người cai nghiện tự nghiện tại các cơ sở cai nghiện ma túy công lập; Nghị định số 94/2010/NĐ-CP về công tác cai nghiện tại gia đình và tại cộng đồng; Quyết định 29/2014/QĐ-TTg về tín dụng đối với hộ gia đình và người nhiễm HIV, người sau cai nghiện ma túy, người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, người bán dâm hoàn lương ... . Tuy nhiên, một số quy định không còn phù hợp thực tiễn, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền và phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trình các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến chính sách hỗ trợ cho người cai nghiện ma túy cho phù hợp, khả thi và hiệu quả.

156. Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị: Đề nghị Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn việc thực hiện Luật xử lý vi phạm hành chính theo hướng: Xác định rõ về trách nhiệm, thẩm quyền cho lực lượng liên ngành phòng, chống tệ nạn xã hội, đặc biệt là cơ quan chuyên trách trong việc kiểm tra các cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng hoạt động mại dâm; quy định cụ thể về cơ chế phối hợp, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về công tác phòng, chống tệ nạn mại dâm cho các Đội trưởng Đội kiểm tra liên ngành 178 của tỉnh.

Trả lời:

Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 không quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cho Đội kiểm tra liên ngành 178. Đội kiểm tra liên ngành chỉ được quyền lập biên bản và đề nghị các cơ quan liên quan hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp ra quyết định xử phạt các hành vi vi phạm hành chính. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội xin tiếp thu kiến nghị của cử tri trong quá trình xây dựng dự thảo Luật về mại dâm (dự kiến trình Quốc hội thông qua năm 2019) sẽ quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về công tác phòng, chống tệ nạn mại dâm cho các Đội trưởng Đội kiểm tra liên ngành 178 của tỉnh./.

157. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị: “hiện nay, còn nhiều tồn tại, bất cập trong bình xét hộ nghèo, cận nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 (thực hiện theo Quyết định 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020). Theo đó, việc bình xét hộ nghèo, hộ cận nghèo ngoài việc đáp ứng các tiêu chí về thu nhập như trước đây còn phải đáp ứng tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản (05 dịch vụ xã hội cơ bản với 10 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản cụ thể). Điều này khi áp dụng ở một số cơ sở chưa sát với thực tế và gây mất công bằng”

Trả lời: Tại công văn số 1363/LĐTBXH-VP ngày 10/4/2017

Ngày 28/6/2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 17/2016/TT-BLĐTBXH hướng dẫn về quy trình điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020, theo đó, việc xét duyệt hộ nghèo sẽ dựa trên kết quả chấm điểm tài sản của hộ gia đình (thông qua mẫu phiếu B để tính điểm B1 - ước lượng thu nhập thông qua tài sản, B2 - xác định mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản). Bộ công cụ và quy trình đánh giá được xây dựng để đánh giá về giá trị sử dụng của hộ gia đình (không đánh giá về giá trị tài sản), qua đó xác định mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của các thành viên trong hộ, do đó, không cần thiết phải xác định mức điểm đánh giá theo giá trị của từng loại tài sản. Bên cạnh đó, việc quy định mức cho điểm để đánh giá tài sản, ước lượng mức thu nhập của hộ gia đình do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng dựa trên kết quả thống kê, khảo sát mức sống hộ gia đình của các vùng trên toàn quốc do Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thực hiện; các chỉ tiêu, mức điểm cho từng chỉ tiêu được Tổng cục Thống kê nghiên cứu, xây dựng chặt chẽ, khoa học dựa trên những yếu tố chung nhất của từng vùng, phù hợp với những đặc điểm cơ bản của các hộ gia đình sinh sống trên địa bàn, do đó, về cơ bản các chỉ tiêu, mức điểm đưa ra trong bộ công cụ và quy trình điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 đã phù hợp với đặc điểm chung từng vùng trên cả nước. Tuy nhiên, sẽ vẫn còn có những trường hợp đặc thù, cá biệt mà bộ công cụ và quy trình điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm chưa thể phản ánh đúng thực trạng của hộ gia đình, do đó, cần đến sự tham gia của cán bộ cơ sở (cấp xã và thôn, bản...) và đại diện các hộ gia đình trên địa bàn trong quá trình thống nhất kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm tại cơ sở.

Để đảm bảo phù hợp với việc đánh giá của địa phương, tại Thông tư đã hướng dẫn các địa phương có thể xin ý kiến chỉ đạo thống nhất của Trưởng Ban Chỉ đạo các Chương trình mục tiêu quốc gia cấp tỉnh để điều chỉnh quy định về nhận diện, đánh giá tài sản của các hộ dân trên địa bàn theo các đặc thù của địa phương.

158. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Đề nghị Chính phủ quan tâm, xem xét tăng chế độ chính sách đối với người có công với cách mạng, những người nghỉ hưu sớm, các đối tượng thương binh, bệnh binh để đảm bảo cuộc sống.

Trả lời: Tại công văn số 1330/LĐTBXH-VP ngày 10/4/2017

Chế độ, chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng được xây dựng căn cứ theo mức độ cống hiến, hy sinh của mỗi diện đối tượng, cân đối trong hệ thống chính sách xã hội nói chung và phù hợp với khả năng kinh tế - xã hội của đất nước theo từng giai đoạn.

Thực hiện đề án cải cách chế độ trợ cấp ưu đãi đối với người có công, mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công với cách mạng đã được điều chỉnh tăng hàng năm, mức chuẩn trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng luôn ở mức cao nhất trong các chính sách xã hội, cân đối với việc nâng lương và trợ cấp bảo hiểm xã hội. Thực tế hiện nay, mức chuẩn trợ cấp người có công là 1.318.000 đồng đã được thực hiện từ ngày 01/01/2015, trong khi từ ngày 01/5/2016 (hơn 01 năm sau), mức lương cơ sở áp dụng cho cán bộ, công chức mới được điều chỉnh tăng lên 1.210.000 đồng.

Đối với những người nghỉ hưu sớm: theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội “mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính dựa trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội”, mức lương hưu hàng tháng của người lao động được tính trên cơ sở thời gian đóng bảo hiểm xã hội và mức tiền lương làm căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội. Như vậy, mức lương hưu của người nghỉ hưu cao hay thấp phụ thuộc vào thời gian đóng, mức tiền lương của người lao động khi còn làm việc.

Giai đoạn 2003-2007, Chính phủ đã 5 lần điều chỉnh lương hưu với mức tăng từ 164,8% đến 228,8% (tùy thuộc vào mức lương khi nghỉ hưu và thời điểm nghỉ hưu) so với mức lương hưu của tháng 12/2002. Giai đoạn từ năm 2008 đến nay, Chính phủ cũng đã 08 lần điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng với mức tăng thêm 168,5% so với cuối năm 2007.

2. Cử tri tiếp tục phản ánh, gia đình thương binh, liệt sĩ chỉ có 01 người được hưởng chế độ BHYT, nhưng hộ nghèo được hưởng cả hộ, so với gia đình có công với cách mạng được hưởng như vậy là chưa hợp lý. Đề nghị Chính phủ cho hưởng chế độ như nhau.

Mỗi chính sách có một tiêu chí khác nhau để xác định đối tượng. Chính sách giảm nghèo xác định đối tượng thụ hưởng theo số nhân khẩu trong hộ, tức là có thể cha mẹ được hưởng chính sách nhưng con lại không được hưởng nếu con không ở cùng hộ khẩu với cha mẹ. Còn chính sách ưu đãi người có công xác định đối tượng thụ hưởng theo công lao đóng góp và theo quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng. Theo đó, nếu một người hy sinh được công nhận liệt sĩ thì thân nhân (cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con, …) đều được nhà nước mua bảo hiểm y tế, không phân biệt có ở cùng hộ hay không. Vì vậy, không thể lấy tiêu chí của chính sách giảm nghèo để áp dụng đối với đối tượng thụ hưởng chính sách ưu đãi người có công và ngược lại.

3. Cử tri cho rằng, hiện nay cán bộ tiền khởi nghĩa số còn sống không nhiều, đề nghị quan tâm để họ sớm được hưởng chính sách của Nhà nước và nên đưa ra tiêu chuẩn “Cán bộ tham gia khởi nghĩa trước năm 1945”.

Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng và Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/04/2013 của Chính phủ đã quy định cụ thể tiêu chuẩn và điều kiện để công nhận và thực hiện chế độ ưu đãi đối với Người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945 và người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến trước Tổng khởi nghĩa Tháng 8 năm 1945. Theo đó, mọi trường hợp đủ điều kiện theo quy định đều được hưởng ưu đãi.

  1. Đề nghị hạ độ tuổi trợ cấp của người cao tuổi xuống còn 75 tuổi và tăng mức trợ cấp hàng tháng để động viên người cao tuổi; đồng thời tăng mức trợ cấp cho người cao tuổi và người tàn tật.

- Về kiến nghị đề nghị hạ độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội của người cao tuổi xuống còn 75 tuổi:

Tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tổng hợp, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định khi sửa Luật Người cao tuổi.

- Về kiến nghị nâng mức trợ cấp xã hội đối với người cao tuổi, người tàn tật:

Trong thời gian qua, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã nhiều lần trình Chính phủ ban hành văn bản mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội, điều chỉnh tăng mức trợ cấp, mức trợ giúp đột xuất cho các đối tượng bảo trợ xã hội trong đó có người cao tuổi, trẻ em khuyết tật, người khuyết tật, trẻ em mồ côi. Gần đây nhất, Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 nâng mức trợ cấp xã hội, trọng đó nâng cao mức chuẩn trợ cấp xã hội từ 180.000 đồng lên 270.000 đồng. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể đối tượng được hưởng hệ số khác nhau, hệ số 1 nếu không khó khăn, hệ số 2-4 nếu đối tượng có hoàn cảnh khó khăn khác nhau. Việc nâng mức chuẩn trợ cấp cho các đối tượng lên đồng loạt 270.000 đồng/người/tháng và thực hiện đầy đủ các chính sách quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP trong bối cảnh khó khăn về ngân sách là sự cố gắng lớn của Chính phủ. Vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin nghiên cứu ý kiến này để trình cơ quan có thẩm quyền vào thời gian thích hợp.

5. Cử tri cho rằng, thời gian qua các hộ cận nghèo đã được Đảng, Nhà nước quan tâm, có chính sách hỗ trợ tích cực, kịp thời. Tuy nhiên, hiện nay mức hỗ trợ đối với các hộ cận nghèo còn thấp, chưa tạo cú hích để bà con đầu tư sản xuất, thoát nghèo bền vững. Cử tri kiến nghị Chính phủ tiếp tục quan tâm, tăng nguồn vốn vay, tiếp tục nghiên cứu có giải pháp khả thi để hộ nghèo có điều kiện thoát nghèo bền vững (kiến nghị số 49). 

Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã hết sức quan tâm để tạo điều kiện cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi để phát triển sản xuất và thoát nghèo thông qua việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản. Ngày 26/4/2016, Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội đã ban hành Quyết định số 32/QĐ-HĐQT về việc nâng hạn mức cho vay tối đa đối với hộ nghèo và hộ cận nghèo từ 30 triệu đồng/hộ lên 50 triệu đồng/hộ.

Tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện tùy thuộc vào nguồn lực huy động được của Ngân hàng Chính sách xã hội, nhu cầu vốn của hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, chu kỳ sản xuất kinh doanh, Ngân hàng Chính sách xã hội xác định hạn mức cho vay và thời gian vay phù hợp với phương châm huy động tối sự tham gia của người dân và phát huy hiệu quả sử dụng vốn vay. Việc nâng hạn mức cho vay các chương trình tín dụng ưu đãi sẽ căn cứ vào tình hình thực tế, khả năng đáp ứng của ngân sách, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cùng các Bộ, ngành có liên quan sẽ đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét nâng hạn mức cho vay các chương trình.

Đồng thời, nhằm gia tăng nguồn vốn thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi cho các đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ thoát nghèo và các đối tượng chính sách khác, ngày 24/01/2017, Ngân hàng Chính sách xã hội đã ban hành Quyết định số 01/QĐ-HĐQT của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Phương án phát hành trái phiếu Ngân hàng Chính sách xã hội được Chính phủ bảo lãnh năm 2017.

6.  Cử tri cho rằng, mức hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo hiện nay đã lạc hậu. Đề nghị Chính phủ tăng mức hỗ trợ hoặc chuyển số tiền hỗ trợ cho hộ nghèo trong huyện giao cho Ủy ban nhân dân huyện để sử dụng cho mục đích chung của huyện.

Hiện nay, quy định về thực hiện chính sách hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo và hộ chính sách xã hội được thực hiện theo Thông tư số 190/2014/TT-BTC ngày 11/12/2014 của Bộ Tài chính.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp thu kiến nghị của cử tri để đề nghị Bộ Tài chính xem xét, đề xuất theo thẩm quyền.

  159. Cử tri tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kiến nghị: Hiện nay, lương của cán bộ, công chức về hưu trước ngày 01/4/1993 rất thấp, không trang trải được nhu cầu cuộc sống, cử tri đề nghị nhà nước có chính sách thỏa đáng để tăng mức lương cho các đối tượng là cán bộ hưu trí về hưu trước năm 1993 vì thời điểm này cán bộ hưu trí hưởng mức lương cũ, khá thấp so với mức sống hiện nay .

Trả lời: Tại công văn số  1335/LĐTBXH-VP  ngày 11/4/2017

Một trong những nguyên tắc bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội là “mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội”, mức lương hưu hàng tháng của người lao động được tính trên cơ sở thời gian đóng bảo hiểm xã hội và mức tiền lương làm căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội. Như vậy, mức lương hưu của người nghỉ hưu cao hay thấp sẽ phụ thuộc vào thời gian đóng, mức tiền lương của người lao động khi còn làm việc.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới đời sống của những người nghỉ hưu, trong đó có người nghỉ hưu trước năm 1993. Trong giai đoạn 2003 - 2007, Chính phủ đã 05 lần điều chỉnh lương hưu với mức tăng từ 164,8% đến 228,8% (tuỳ thuộc vào mức lương khi nghỉ hưu và thời điểm nghỉ hưu) so với mức lương hưu của tháng 12 năm 2002, trong đó người nghỉ hưu trước tháng 9 năm 1985 và trước tháng 4 năm 1993 được điều chỉnh với tỷ lệ cao hơn những người nghỉ hưu ở giai đoạn từ tháng 4 năm 1993 trở về sau. Trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay, Chính phủ cũng đã 08 lần điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng với mức tăng thêm 168,5% so với cuối năm 2007.

Thông qua việc thực hiện điều chỉnh lương hưu nêu trên, đời sống của người nghỉ hưu từng bước được cải thiện và Chính phủ cũng đã thực hiện các biện pháp nhằm giảm bớt chênh lệch lương hưu của người nghỉ hưu giữa các thời kỳ. Tuy nhiên, do chính sách bảo hiểm xã hội được thực hiện theo nguyên tắc đóng - hưởng, tiền lương của người lao động ở thời kỳ sau luôn có xu hướng được cải thiện hơn so với thời kỳ trước và do đó khi nghỉ hưu cũng thường có mức lương hưu cao hơn, việc điều chỉnh lương hưu nhằm đảm bảo sự tương quan về mức lương hưu giữa các thời kỳ nhưng cũng chưa xử lý triệt để được.

Riêng đối với những người nghỉ hưu có mức lương hưu thấp (bao gồm cả người nghỉ hưu trước và sau tháng 4 năm 1993), ngày 11/11/2015, trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 99/2015/QH13 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016, theo đó “Từ ngày 01/01/2016, thực hiện điều chỉnh tiền lương đối với người có mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động dưới 2.000.000 đồng/tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian công tác trước năm 1995 để lương hưu của các đối tượng này đạt mức lương cơ sở...”

Triển khai Nghị quyết số 99/2015/QH13 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2016/NĐ-CP ngày 15/6/2016 điều chỉnh mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian làm việc trước năm 1995; ngày 15/7/2016, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 23/2016/TT-BLĐTBXH hướng dẫn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng. Theo đó từ ngày 01/01/2016, tăng thêm 250.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng lương hưu có mức lương hưu dưới 2 triệu đồng/tháng và tăng thêm 150.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng với mức trợ cấp dưới 2 triệu đồng/tháng.

Trên cơ sở kết quả thực hiện việc điều chỉnh lương hưu, trợ cấp nêu trên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành để rà soát, đánh giá và đề xuất các phương án điều chỉnh lương hưu cho các giai đoạn tiếp theo.

  1. Đề nghị hạ độ tuổi trợ cấp của người cao tuổi xuống còn 75 tuổi và tăng mức trợ cấp hàng tháng để động viên người cao tuổi; đồng thời tăng mức trợ cấp cho người cao tuổi và người tàn tật.

- Về kiến nghị cho tất cả những người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng và đề nghị hạ độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội xuống 75 tuổi:

Tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tổng hợp, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định khi sửa Luật Người cao tuổi.

- Về kiến nghị nâng mức trợ cấp xã hội đối với người cao tuổi, người tàn tật:

Trong thời gian qua, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã nhiều lần trình Chính phủ ban hành văn bản mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội, điều chỉnh tăng mức trợ cấp, mức trợ giúp đột xuất cho các đối tượng bảo trợ xã hội trong đó có người cao tuổi, trẻ em khuyết tật, người khuyết tật, trẻ em mồ côi. Gần đây nhất, Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 nâng mức trợ cấp xã hội, trọng đó nâng cao mức chuẩn trợ cấp xã hội từ 180.000 đồng lên 270.000 đồng. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể đối tượng được hưởng hệ số khác nhau, hệ số 1 nếu không khó khăn, hệ số 2-4 nếu đối tượng có hoàn cảnh khó khăn khác nhau. Việc nâng mức chuẩn trợ cấp cho các đối tượng lên đồng loạt 270.000 đồng/người/tháng và thực hiện đầy đủ các chính sách quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP trong bối cảnh khó khăn về ngân sách là sự cố gắng lớn của Chính phủ. Vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin nghiên cứu ý kiến này để trình cơ quan có thẩm quyền vào thời gian thích hợp.

  1. Thời gian gần đây có tình trạng học viên đập phá, trốn trại, gây mất an toàn, an ninh trật tự tại một số địa phương như ở tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu .... Cử tri kiến nghị: xử lý nghiêm các đối tượng chống người thi hành công vụ, đập phá cơ sở, đồng thời xem xét trách nhiệm của cá nhân, tổ chức để sảy ra tình trạng trên.

Dù đang trong giai đoạn triển khai các giải pháp theo Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020, Nghị quyết số 98/NQ-CP của Chính phủ về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới, nhưng chất lượng dịch vụ tại các Cơ sở cai nghiện bước đầu đã được cải thiện. Tuy nhiên, gần đây đã có tình trạng học viên bỏ trốn khỏi Cơ sở cai nghiện gây hoang mang dư luận, nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là:

- Việc áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật xử lý hành chính thời gian qua gặp một số vướng mắc, nên giai đoạn 2014 đến Quý III/2016 phần lớn các Cơ sở cai nghiện vắng học viên. Từ Quý III/2016 đến đầu 2017, một số địa phương tiến hành lập hồ sơ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với số lượng lớn, vượt cả công suất thiết kế của Cơ sở cai nghiện, trong khi cơ sở vật chất xuống cấp không kịp tu sửa, cán bộ, nhân viên chưa quen với phương thức quản lý mới, công tác tư vấn cho học viên chưa được làm thường xuyên, điều kiện sinh hoạt của học viện xuống cấp, dẫn đến tâm lý học viên không ổn định, bức bối;

- Thực hiện chủ trương đổi mới, thời gian qua nhiều Cơ sở cai nghiện đã dỡ bỏ “tường cao, hào sâu” để tạo môi trường thân thiện. Tuy nhiên, ở một số nơi một số học viên đã lợi dụng “môi trường thân thiện”, vượt qua sự kiểm soát của cán bộ Cơ sở cai nghiện để bỏ trốn.

Trước tình hình đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tổ chức các đoàn công tác do Lãnh đạo Bộ làm trưởng đoàn trực tiếp kiểm tra, chỉ đạo xử lý nghiêm vụ việc, ổn định tình hình (điển hình như ở tỉnh Đồng Nai, đến nay Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã tổ chức kiểm điểm nghiêm túc, rút kinh nghiệm đối với toàn thể cán bộ, nhân viên Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đông Nai; Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã khởi tố hình sự đối với 49 học viên của Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai với các tội danh “Gây rối trật tự công cộng”; “Chống người thi hành công vụ”; “Phá hoại tài sản”; “Trộm cắp tài sản”).

Để tăng cường công tác chỉ đạo, ngày 07/11/2016 Thủ tướng Chính phủ đã có Công điện số 1995/CĐ-TTg về tăng cường công tác quản lý, cai nghiện trong cơ sở cai nghiện ma túy, trong đó trọng tâm là việc chuyển đổi mô hình hoạt động của các Cơ sở cai nghiện theo Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 26/12/2014 của Chính phủ.

160. Cử tri tỉnh Bạc Liêu kiến nghị: Đề nghị Quốc hội xem xét điều chỉnh lại quy định để người dân được dễ dàng làm thủ tục  hưởng chế độ chính sách của Nhà nước, vì có tham gia kháng chiến mới có huân, huy chương nhưng những người làm hồ sơ trước năm 2000 thì đủ điều kiện được hưởng, còn những người làm thủ tục đề nghị tặng thưởng Huân, Huy chương sau năm 2000 thì không được hưởng.

   Trả lời: Tại công văn số 1348/LĐTBXH-VP  ngày 14//4/2017

Tại Điều 5 Thông tư số 16/2014/TT-BLĐTBXH ngày 30/07/2014 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn về xác nhận và giải quyết chế độ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học quy định:

“Ngoài những quy định tại Khoản 2 Điều 27 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/05/2013 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân, bổ sung một trong các giấy tờ chứng minh thời gian tham gia hoạt động kháng chiến tại các vùng mà quân đội Mỹ sử dụng chất độc hóa học như sau:

a) Bản sao một trong các giấy tờ: Lý lịch công an nhân dân; hồ sơ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội; hồ sơ khen thưởng tổng kết thành tích tham gia kháng chiến; hồ sơ, giấy tờ khác có giá trị pháp lý được lập trước ngày 01/01/2000;

b) Giấy xác nhận của cơ quan chức năng thuộc Bộ Quốc phòng về phiên hiệu, ký hiệu, thời gian và địa bàn hoạt động của đơn vị.”

Như vậy, đối với hồ sơ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, hồ sơ khen thưởng tổng kết thành tích tham gia kháng chiến thì không quy định về thời gian xác lập. Trường hợp hồ sơ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, hồ sơ khen thưởng tổng kết thành tích tham gia kháng chiến lập sau ngày 01/01/2000 là một trong các giấy tờ chứng minh thời gian tham gia kháng chiến để xác lập hồ sơ xem xét, giải quyết chế độ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.

  1. Hiện nay, lương của cán bộ, công chức về hưu trước ngày 01/4/1993 rất thấp, không trang trải được nhu cầu cuộc sống, cử tri đề nghị nhà nước có chính sách thỏa đáng để tăng mức lương cho các đối tượng là cán bộ hưu trí về hưu trước năm 1993 vì thời điểm này cán bộ hưu trí hưởng mức lương cũ, khá thấp so với mức sống hiện nay.
  2. Một trong những nguyên tắc bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội là “mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội”, mức lương hưu hàng tháng của người lao động được tính trên cơ sở thời gian đóng bảo hiểm xã hội và mức tiền lương làm căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội. Như vậy, mức lương hưu của người nghỉ hưu cao hay thấp sẽ phụ thuộc vào thời gian đóng, mức tiền lương của người lao động khi còn làm việc.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới đời sống của những người nghỉ hưu, trong đó có người nghỉ hưu trước năm 1993. Trong giai đoạn 2003 - 2007, Chính phủ đã 05 lần điều chỉnh lương hưu với mức tăng từ 164,8% đến 228,8% (tuỳ thuộc vào mức lương khi nghỉ hưu và thời điểm nghỉ hưu) so với mức lương hưu của tháng 12 năm 2002, trong đó người nghỉ hưu trước tháng 9 năm 1985 và trước tháng 4 năm 1993 được điều chỉnh với tỷ lệ cao hơn những người nghỉ hưu ở giai đoạn từ tháng 4 năm 1993 trở về sau. Trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay, Chính phủ cũng đã 08 lần điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng với mức tăng thêm 168,5% so với cuối năm 2007.

Thông qua việc thực hiện điều chỉnh lương hưu nêu trên, đời sống của người nghỉ hưu từng bước được cải thiện và Chính phủ cũng đã thực hiện các biện pháp nhằm giảm bớt chênh lệch lương hưu của người nghỉ hưu giữa các thời kỳ. Tuy nhiên, do chính sách bảo hiểm xã hội được thực hiện theo nguyên tắc đóng - hưởng, tiền lương của người lao động ở thời kỳ sau luôn có xu hướng được cải thiện hơn so với thời kỳ trước và do đó khi nghỉ hưu cũng thường có mức lương hưu cao hơn, việc điều chỉnh lương hưu nhằm đảm bảo sự tương quan về mức lương hưu giữa các thời kỳ nhưng cũng chưa xử lý triệt để được.

Riêng đối với những người nghỉ hưu có mức lương hưu thấp (bao gồm cả người nghỉ hưu trước và sau tháng 4 năm 1993), ngày 11/11/2015, trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 99/2015/QH13 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016, theo đó “Từ ngày 01/01/2016, thực hiện điều chỉnh tiền lương đối với người có mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động dưới 2.000.000 đồng/tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian công tác trước năm 1995 để lương hưu của các đối tượng này đạt mức lương cơ sở...”

Triển khai Nghị quyết số 99/2015/QH13 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2016/NĐ-CP ngày 15/6/2016 điều chỉnh mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian làm việc trước năm 1995; ngày 15/7/2016, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 23/2016/TT-BLĐTBXH hướng dẫn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng. Theo đó từ ngày 01/01/2016, tăng thêm 250.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng lương hưu có mức lương hưu dưới 2 triệu đồng/tháng và tăng thêm 150.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng với mức trợ cấp dưới 2 triệu đồng/tháng.

Trên cơ sở kết quả thực hiện việc điều chỉnh lương hưu, trợ cấp nêu trên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành để rà soát, đánh giá và đề xuất các phương án điều chỉnh lương hưu cho các giai đoạn tiếp theo.

  1. Đề nghị xem xét có giải pháp thưc hiện hiệu quả hơn Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” để người dân tìm được việc làm ổn định (kiến nghị số 39).

Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án) được thực hiện từ năm 2010. Sau 7 năm thực hiện, đã có trên 3,2 triệu lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề, trong đó trên 50% lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề là nữ, 22,3% người dân tộc thiểu số, 10,2% người thuộc hộ nghèo; 2% người bị thu hồi đất, 1,5% người khuyết tật, còn lại là lao động nông thôn khác.

Từ năm 2016, đào tạo nghề cho lao động nông thôn là một nội dung trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, được phê duyệt tại Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ. Để đảm bảo thực hiện hiệu quả Đề án, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương:

(1). Tổ chức đánh giá 07 năm (2010 - 2016) thực hiện Đề án, rà soát tiến độ từng năm để phấn đấu hoàn thành mục tiêu Đề án đến năm 2020. Trên cơ sở đó, xây dựng và điều chỉnh Đề án hoặc Kế hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2016 - 2020 của địa phương; đề xuất mục tiêu, nhiệm vụ năm 2017. Trong đó, lưu ý rà soát, cập nhật, bổ sung nhu cầu đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo yêu cầu tái cơ cấu ngành nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại địa phương; làm rõ chỉ tiêu, nhiệm vụ hỗ trợ đào tạo nghề đối với lao động nông thôn, người khuyết tật, lao động nữ; đào tạo nghề nông nghiệp, nghề phi nông nghiệp hàng năm, 05 năm theo các nội dung hoạt động quy định tại Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009, Quyết định số 971/QĐ-TTg ngày 01/7/2015 và Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ.

(2). Tiếp tục rà soát, xây dựng, phê duyệt danh mục nghề đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 03 tháng; mức chi phí đào tạo đối với từng nghề, mức hỗ trợ cụ thể đối với từng đối tượng theo quy định tại Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg ngày 28/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng và Thông tư hướng dẫn số 152/2016/TT-BTC ngày 17/10/2016 của Bộ Tài chính.

(3). Tổ chức đào tạo nghiệp vụ sư phạm đối với người được tuyển làm giáo viên trung tâm giáo dục nghề nghiệp; đào tạo giáo viên giảng dạy kiến thức kinh doanh và khởi sự doanh nghiệp cho lao động nông thôn; tổ chức bồi dưỡng kỹ năng dạy học đối với người dạy nghề là nghệ nhân, nông dân sản xuất giỏi, kỹ sư, cán bộ kỹ thuật, người có tay nghề cao để tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn; bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý và tư vấn đào tạo nghề, tư vấn việc làm cho lao động nông thôn đối với cán bộ quản lý cấp tỉnh, cấp huyện, xã, cơ sở đào tạo nghề; bồi dưỡng nghiệp vụ giám sát việc tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại xã đối với cán bộ Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

(4). Tổ chức triển khai hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 03 tháng đối với lao động nông thôn, người khuyết tật, lao động nữ theo quy định tại Quyết định số 971/QĐ-TTg ngày 01/7/2015, Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg ngày 28/9/2015, Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ phủ đảm bảo hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra.

(5). Rà soát, đánh giá lại kết quả đầu tư và hoạt động của các trung tâm giáo dục nghề nghiệp công lập cấp huyện, trung tâm dịch vụ việc làm thanh niên, trường trung cấp thủ công mỹ nghệ, trường trung cấp công lập ở những huyện chưa có trung tâm giáo dục nghề nghiệp công lập cấp huyện giai đoạn 2010-2015 và đề xuất nhu cầu hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo, phương tiện vận chuyển đào tạo nghề lưu động đối với các cơ sở này trong giai đoạn 2016-2020.

(6). Chỉ đạo rà soát, kiện toàn Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án và Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo các cấp ở địa phương. 

(7). Tăng cường công tác tuyên truyền về đào tạo nghề, tạo việc làm đối với lao động nông thôn, người khuyết tật, lao động nữ; công tác kiểm tra, giám sát việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

4. Đề nghị có chính sách cho người từ 70 tuổi trở lên được hưởng bảo hiểm y tế (kiến nghị số 61).

Chính sách về bảo hiểm y tế nói chung và cho người cao tuổi nói riêng được thực hiện theo quy định tại Luật Bảo hiểm y tế. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tiếp thu kiến nghị của cử tri để đề nghị Bộ Y tế xem xét, đề xuất theo thẩm quyền.

   161. Cử tri tỉnh Bình Dương kiến nghị: Cử tri phản ánh chế độ bảo hiểm y tế cho người có công cách mạng (đối tượng thuộc diện thương binh từ loại 2 đến loại 4) còn có những hạn chế trong khâu khám và điều trị như: một số thuốc đặc trị còn thiếu hoặc không thuộc danh mục được cấp, không được hỗ trợ phương pháp điều trị kỹ thuật cao… Cử tri đề nghị ngành y tế nên quan tâm điều chỉnh chính sách bảo hiểm y tế đối với người có công cho phù hợp

Trả lời: Tại công văn số 1368/LĐTBXH-VP  ngày 11/4/2017

Theo quy định tại Điều 20 Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, thương binh được nhà nước mua bảo hiểm y tế. Việc tổ chức khám bệnh, chữa bệnh cho người tham gia bảo hiểm y tế được thực hiện theo Luật Bảo hiểm y tế. Tại Điều 6, Luật Bảo hiểm y tế quy định Bộ Y tế có trách nhiệm ban hành quy định chuyên môn kỹ thuật, quy trình khám bệnh, chữa bệnh và hướng dẫn điều trị; chuyển tuyến liên quan đến khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế.

Hiện nay, lương của cán bộ, công chức về hưu trước ngày 01/4/1993 rất thấp, không trang trải được nhu cầu cuộc sống, cử tri đề nghị nhà nước có chính sách thỏa đáng để tăng mức lương cho các đối tượng là cán bộ hưu trí về hưu trước năm 1993 vì thời điểm này cán bộ hưu trí hưởng mức lương cũ, khá thấp so với mức sống hiện nay

Một trong những nguyên tắc bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội là “mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội”, mức lương hưu hàng tháng của người lao động được tính trên cơ sở thời gian đóng bảo hiểm xã hội và mức tiền lương làm căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội. Như vậy, mức lương hưu của người nghỉ hưu cao hay thấp sẽ phụ thuộc vào thời gian đóng, mức tiền lương của người lao động khi còn làm việc.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới đời sống của những người nghỉ hưu, trong đó có người nghỉ hưu trước năm 1993. Trong giai đoạn 2003 - 2007, Chính phủ đã 05 lần điều chỉnh lương hưu với mức tăng từ 164,8% đến 228,8% (tuỳ thuộc vào mức lương khi nghỉ hưu và thời điểm nghỉ hưu) so với mức lương hưu của tháng 12 năm 2002, trong đó người nghỉ hưu trước tháng 9 năm 1985 và trước tháng 4 năm 1993 được điều chỉnh với tỷ lệ cao hơn những người nghỉ hưu ở giai đoạn từ tháng 4 năm 1993 trở về sau. Trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay, Chính phủ cũng đã 08 lần điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng với mức tăng thêm 168,5% so với cuối năm 2007.

Thông qua việc thực hiện điều chỉnh lương hưu nêu trên, đời sống của người nghỉ hưu từng bước được cải thiện và Chính phủ cũng đã thực hiện các biện pháp nhằm giảm bớt chênh lệch lương hưu của người nghỉ hưu giữa các thời kỳ. Tuy nhiên, do chính sách bảo hiểm xã hội được thực hiện theo nguyên tắc đóng - hưởng, tiền lương của người lao động ở thời kỳ sau luôn có xu hướng được cải thiện hơn so với thời kỳ trước và do đó khi nghỉ hưu cũng thường có mức lương hưu cao hơn, việc điều chỉnh lương hưu nhằm đảm bảo sự tương quan về mức lương hưu giữa các thời kỳ nhưng cũng chưa xử lý triệt để được.

Riêng đối với những người nghỉ hưu có mức lương hưu thấp (bao gồm cả người nghỉ hưu trước và sau tháng 4 năm 1993), ngày 11/11/2015, trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 99/2015/QH13 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016, theo đó “Từ ngày 01/01/2016, thực hiện điều chỉnh tiền lương đối với người có mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động dưới 2.000.000 đồng/tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian công tác trước năm 1995 để lương hưu của các đối tượng này đạt mức lương cơ sở...”

Triển khai Nghị quyết số 99/2015/QH13 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2016/NĐ-CP ngày 15/6/2016 điều chỉnh mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian làm việc trước năm 1995; ngày 15/7/2016, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 23/2016/TT-BLĐTBXH hướng dẫn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng. Theo đó từ ngày 01/01/2016, tăng thêm 250.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng lương hưu có mức lương hưu dưới 2 triệu đồng/tháng và tăng thêm 150.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng với mức trợ cấp dưới 2 triệu đồng/tháng.

Trên cơ sở kết quả thực hiện việc điều chỉnh lương hưu, trợ cấp nêu trên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành để rà soát, đánh giá và đề xuất các phương án điều chỉnh lương hưu cho các giai đoạn tiếp theo.

Cử tri phản ánh về Quyết định số 959/QĐ-BHXH ngày 09/9/2015 về việc ban hành quy định về quản lý thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, quản lý sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế. Cụ thể: tại Điểm 1.6 Khoản 1 Điều 4 quy định người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc vào quỹ hưu trí và tử tuất (thực hiện từ ngày 01/01/2016), nhưng theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, có hiệu lực từ ngày 01/01/2016 thì cán bộ không chuyên trách ở xã, phường mặc dù tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng sẽ không được hưởng chế độ ốm đau, thai sản. Cử tri đề nghị bổ sung thêm cán bộ không chuyên trách phường, xã vào nhóm đối tượng được hưởng chế độ ốm đau, thai sản... để góp phần cải thiện đời sống và an tâm công tác

Trước đây, người hoạt động không chuyên trách cấp xã không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Tuy nhiên, từ ngày 01/01/2016, theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, người hoạt động không chuyên trách cấp xã thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc với hai chế độ hưu trí và tử tuất.

Theo quy định, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã không hưởng tiền lương mà hưởng chế độ phụ cấp, mức phụ cấp do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định từ nguồn kinh phí khoán quỹ phụ cấp của ngân sách trung ương và nguồn kinh phí từ ngân sách địa phương. Mặt khác, tính chất công việc của đối tượng này không chuyên trách (không trọn thời gian, thời gian làm việc không cố định). Do đó, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc chỉ ở hai chế độ là hưu trí và tử tuất; đồng thời, tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của nhóm đối tượng này được đóng trên mức lương cơ sở.

Cử tri là lực lượng vũ trang Trung đoàn 271 phản ánh tình trạng học viên trốn khỏi trung tâm cai nghiện trong thời gian qua đã gây hoang mang dư luận. Cử tri đề nghị các ngành chức năng cần có chính sách phù hợp đối với người cai nghiện, quan tâm giáo dục, tuyên truyền cho các đối tượng này, đồng thời nâng cao chất lượng cơ sở vật chất tại các trung tâm cai nghiện, tăng cường công tác quản lý để tránh xảy ra tình trạng trên.

Về điều chỉnh mô hình cai nghiện và điều chỉnh chế độ cai nghiện

Trước tình trạng số người sử dụng trái phép các chất ma túy ngày càng gia tăng trong khi một số biện pháp cai nghiện áp dụng thời gian qua chưa đạt hiệu quả như mong muốn, ngày 27/12/2013 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2596/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020. Ngày 26/12/2014, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 98/NQ-CP về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới. Theo đó, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt là: cai nghiện nghiện ma túy là một quá trình lâu dài bao gồm tổng thể các can thiệp hỗ trợ về y tế, tâm lý, xã hội làm thay đổi nhận thức, hành vi nhằm giảm tác hại của nghiện ma túy và giảm tình trạng sử dụng ma túy trái phép; thực hiện đa dạng hóa các biện pháp và mô hình cai nghiện; tăng dần cai nghiện tự nguyện, giảm dần cai nghiện bắt buộc với lộ trình phù hợp; Nhà nước đầu tư nguồn lực và khuyến khích xã hội hóa công tác dự phòng và cai nghiện ma túy.

1. Về giải pháp giảm thiểu số người sử dụng trái phép các chất ma túy

Thực hiện Quyết định số 2596/QĐ-TTg và Nghị quyết số 98/NQ-CP, thời gian qua các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung triển khai thực hiện các giải pháp trọng tâm như: Tăng cường thông tin, truyền thông nâng cao nhận thức về nghiện ma túy, dự phòng và cai nghiện trong đó phòng ngừa là giải pháp có tính chất chiến lược; Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dự phòng và điều trị nghiện trên tinh thần của Hiến pháp 2013 (Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật phòng, chống ma túy năm 2000, Luật sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống ma túy năm 2008, Luật xử lý vi phạm hành chính); Đổi mới, nâng cao chất lượng cai nghiện tại các cơ sở cai nghiện, tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước để nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hệ thống các cơ sở cai nghiện để đáp ứng yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ; phát triển công tác tư vấn dự phòng, chăm sóc, hỗ trợ cai nghiện tại cộng đồng, đáp ứng nhu cầu đa dạng về dịch vụ điều trị nghiện; hỗ trợ các đối tượng chính sách để họ có điều kiện tiếp cận với dịch vụ dự phòng và cai nghiện; huy động sự tham gia của cộng đồng, khuyến khích xã hội hóa công tác dự phòng và cai nghiện; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác dự phòng và điều trị nghiện; Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, các tổ chức thuộc chính phủ, phi chính phủ, các nước nhằm tranh thủ sự hỗ trợ về chuyên môn, kỹ thuật và tài chính cho công tác dự phòng và cai nghiện, phục hồi.

2. Về đầu tư, tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng hoạt động của các Cơ sở cai nghiện công lập

Ngày 03/2/2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ danh mục các dự án nhóm C hỗ trợ từ ngân sách Trung ương để thực hiện đổi mới công tác cai nghiện (thuộc Chương trình đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020), đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý (Công văn số 2538/VPCP-KGVX ngày 12/4/2016). Đến nay, các dự án đầu tư nâng cấp cơ sở cai nghiện theo dự án nhóm C đối với dự án của 38 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thẩm định để địa phương triển khai thực hiện.

Ngày 28/4/2016, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 04/2016/TT-BLĐTBXH ban hành Khung chương trình đào tạo về tư vấn điều trị nghiện ma túy. Đến nay, nhiều địa phương đã chủ động đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị và chủ động tổ chức tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở. Qua đó, chất lượng hoạt động của các Cơ sở cai nghiện công lập đã được cải thiện.

   162. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Hiện nay chế độ trợ cấp hàng tháng Bà mẹ Việt Nam anh hùng có ba liệt sĩ thấp hơn so với Bà mẹ Việt Nam anh hùng có hai liệt sĩ là không phù hợp. Đề nghị cần phải xem xét lại nâng mức tiền hỗ trợ thờ cúng liệt sĩ hàng năm vì hiện nay mức 500.000 đồng/năm là quá thấp. Có quy định hỗ trợ tiền thờ cúng cho thân nhân thứ yếu đối với những trường hợp liệt sĩ không còn thân nhân chủ yếu để thờ cúng .

Trả lời: Tại công văn số  1228/LĐTBXH-VP  ngày 3/4/2017

- Về chế độ trợ cấp hàng tháng đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng:

Theo quy định tại Điều 15 của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, Bà mẹ Việt Nam anh hùng được hưởng các chế độ ưu đãi đối với thân nhân liệt sĩ theo quy định tại Điều 14 của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (theo đó trợ cấp hàng tháng đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng được hưởng theo mức thân nhân của một liệt sĩ, thân nhân của hai liệt sĩ, thân nhân của ba liệt sĩ). Như vậy, Bà mẹ Việt Nam anh hùng có hai con là liệt sĩ được hưởng trợ cấp hai suất tuất liệt sĩ, bà mẹ có ba con là liệt sĩ được hưởng trợ cấp ba suất tuất liệt sĩ.

- Về đề nghị cần phải xem xét nâng mức tiền hỗ trợ thờ cúng liệt sĩ hàng năm:

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tổng hợp, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định khi sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng.

1. Kiến nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nghiên cứu điều chỉnh lại chính sách tù đày, nên quy định cho hưởng trợ cấp theo thời gian ở tù không nên quy định cho hưởng một mức 790.000 đồng như hiện nay. Vì có nhiều người thời gian ở tù lâu cũng được hưởng như những người có thời gian ở tù ít là không công bằng.

Việc xác định mức độ cống hiến và công lao của mỗi người trong quá trình hoạt động cách mạng là rất khó khăn do tính chất gian khổ, các hình thức giam cầm, tra tấn của mỗi nhà tù là khác nhau. Trên cơ sở đó, việc quy định và thực hiện chính sách như hiện nay cơ bản là phù hợp.

2. Đề nghị xem xét có chế độ thờ cúng đối với Mẹ Việt Nam anh hùng khi từ trần giống như chế độ thờ cúng liệt sĩ.

Liệt sĩ là diện đối tượng tiêu biểu trong 12 đối tượng người có công. Đây là những người đã hy sinh thân mình vì Tổ quốc. Vì vậy, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng có những quy định riêng đối với liệt sĩ về lễ an táng, truy điệu, xây dựng, quản lý các công trình liệt sĩ, cùng với đó là chế độ thờ cúng liệt sĩ hàng năm.

Theo quy định hiện hành, Bà mẹ Việt Nam anh hùng cũng như các đối tượng người có công khác (cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa, Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động thời kỳ kháng chiến, thương binh,…), khi từ trần thì thân nhân được hưởng trợ cấp mai táng phí và trợ cấp một lần.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin ghi nhận ý kiến, kiến nghị của cử tri tỉnh Bình Thuận và sẽ tổng hợp báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định khi sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng.

3. Kiến nghị xem xét điều chỉnh đối tượng người có Huân, Huy chương kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ được hưởng chính sách người có công.

Ngày 29/8/1994, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng, trong đó quy định chính sách ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế được Nhà nước tặng thưởng Huân chương, Huy chương tổng kết thành tích kháng chiến được nhận trợ cấp hàng tháng hoặc trợ cấp một lần theo thâm niên tham gia kháng chiến.

Hiện nay, Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng quy định, người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến, Huy chương kháng chiến được hưởng các chế độ ưu đãi: trợ cấp một lần, bảo hiểm y tế và khi người  hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế chết thì người tổ chức mai táng được nhận mai táng phí.

4. Hiện nay, lương của cán bộ, công chức về hưu trước ngày 01/4/1993 rất thấp, không trang trải được nhu cầu cuộc sống, cử tri đề nghị nhà nước có chính sách thỏa đáng để tăng mức lương cho các đối tượng là cán bộ hưu trí về hưu trước năm 1993 vì thời điểm này cán bộ hưu trí hưởng mức lương cũ, khá thấp so với mức sống hiện nay.

Một trong những nguyên tắc bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội là “mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội”, mức lương hưu hàng tháng của người lao động được tính trên cơ sở thời gian đóng bảo hiểm xã hội và mức tiền lương làm căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội. Như vậy, mức lương hưu của người nghỉ hưu cao hay thấp sẽ phụ thuộc vào thời gian đóng, mức tiền lương của người lao động khi còn làm việc.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới đời sống của những người nghỉ hưu, trong đó có người nghỉ hưu trước năm 1993. Trong giai đoạn 2003 - 2007, Chính phủ đã 05 lần điều chỉnh lương hưu với mức tăng từ 164,8% đến 228,8% (tuỳ thuộc vào mức lương khi nghỉ hưu và thời điểm nghỉ hưu) so với mức lương hưu của tháng 12 năm 2002, trong đó người nghỉ hưu trước tháng 9 năm 1985 và trước tháng 4 năm 1993 được điều chỉnh với tỷ lệ cao hơn những người nghỉ hưu ở giai đoạn từ tháng 4 năm 1993 trở về sau. Trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay, Chính phủ cũng đã 08 lần điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng với mức tăng thêm 168,5% so với cuối năm 2007.

Thông qua việc thực hiện điều chỉnh lương hưu nêu trên, đời sống của người nghỉ hưu từng bước được cải thiện và Chính phủ cũng đã thực hiện các biện pháp nhằm giảm bớt chênh lệch lương hưu của người nghỉ hưu giữa các thời kỳ. Tuy nhiên, do chính sách bảo hiểm xã hội được thực hiện theo nguyên tắc đóng - hưởng, tiền lương của người lao động ở thời kỳ sau luôn có xu hướng được cải thiện hơn so với thời kỳ trước và do đó khi nghỉ hưu cũng thường có mức lương hưu cao hơn, việc điều chỉnh lương hưu nhằm đảm bảo sự tương quan về mức lương hưu giữa các thời kỳ nhưng cũng chưa xử lý triệt để được.

Riêng đối với những người nghỉ hưu có mức lương hưu thấp (bao gồm cả người nghỉ hưu trước và sau tháng 4 năm 1993), ngày 11/11/2015, trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 99/2015/QH13 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016, theo đó “Từ ngày 01/01/2016, thực hiện điều chỉnh tiền lương đối với người có mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động dưới 2.000.000 đồng/tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian công tác trước năm 1995 để lương hưu của các đối tượng này đạt mức lương cơ sở...”

Triển khai Nghị quyết số 99/2015/QH13 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2016/NĐ-CP ngày 15/6/2016 điều chỉnh mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian làm việc trước năm 1995; ngày 15/7/2016, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 23/2016/TT-BLĐTBXH hướng dẫn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng. Theo đó từ ngày 01/01/2016, tăng thêm 250.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng lương hưu có mức lương hưu dưới 2 triệu đồng/tháng và tăng thêm 150.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng với mức trợ cấp dưới 2 triệu đồng/tháng.

Trên cơ sở kết quả thực hiện việc điều chỉnh lương hưu, trợ cấp nêu trên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành để rà soát, đánh giá và đề xuất các phương án điều chỉnh lương hưu cho các giai đoạn tiếp theo.

5. Đề nghị hạ độ tuổi trợ cấp của người cao tuổi xuống còn 75 tuổi và tăng mức trợ cấp hàng tháng để động viên người cao tuổi; đồng thời tăng mức trợ cấp cho người cao tuổi và người tàn tật (kiến nghị số 46).

Đề nghị nghiên cứu, sửa Luật Người cao tuổi theo hướng cho tất cả những người đến 80 tuổi được hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng, không phân biệt cán bộ hưu trí với các đối tượng khác, nhằm đảm bảo sự công bằng trong thụ hưởng các chính sách bảo trợ xã hội của Nhà nước cho cùng một đối tượng; đồng thời xem xét giảm độ tuổi được hưởng chính sách này từ 80 tuổi xuống còn 75 tuổi, do hiện nay ở nông thôn vào độ tuổi này sức khỏe các cụ đã giảm nhiều; Bởi, theo ý kiến của các cụ, đây là chính sách của Đảng và Nhà nước đã động viên rất lớn đến tinh thần, giúp các cụ phấn đấu đẻ sống vui, sống khỏe

- Về kiến nghị cho tất cả những người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng và đề nghị hạ độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội xuống 75 tuổi:

Tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tổng hợp, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định khi sửa Luật Người cao tuổi.

- Về kiến nghị nâng mức trợ cấp xã hội đối với người cao tuổi, người tàn tật:

Trong thời gian qua, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã nhiều lần trình Chính phủ ban hành văn bản mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội, điều chỉnh tăng mức trợ cấp, mức trợ giúp đột xuất cho các đối tượng bảo trợ xã hội trong đó có người cao tuổi, trẻ em khuyết tật, người khuyết tật, trẻ em mồ côi. Gần đây nhất, Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 nâng mức trợ cấp xã hội, trọng đó nâng cao mức chuẩn trợ cấp xã hội từ 180.000 đồng lên 270.000 đồng. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể đối tượng được hưởng hệ số khác nhau, hệ số 1 nếu không khó khăn, hệ số 2-4 nếu đối tượng có hoàn cảnh khó khăn khác nhau. Việc nâng mức chuẩn trợ cấp cho các đối tượng lên đồng loạt 270.000 đồng/người/tháng và thực hiện đầy đủ các chính sách quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP trong bối cảnh khó khăn về ngân sách là sự cố gắng lớn của Chính phủ. Vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin nghiên cứu ý kiến này để trình cơ quan có thẩm quyền vào thời gian thích hợp.

163. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị: kiến nghị cho tất cả những người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; đề nghị hạ độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội xuống 75 tuổi và nâng mức trợ xấp xã hội đối với người cao tuổi, người tàn tật

Trả lời: Tại công văn số  1277/LĐTBXH-VP  ngày 5/4/2017

- Về kiến nghị cho tất cả những người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng và đề nghị hạ độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội xuống 75 tuổi:

Tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ tổng hợp, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định khi sửa Luật Người cao tuổi.

- Về kiến nghị nâng mức trợ xấp xã hội đối với người cao tuổi, người tàn tật:

Trong thời gian qua, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã nhiều lần trình Chính phủ ban hành văn bản mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội, điều chỉnh tăng mức trợ cấp, mức trợ giúp đột xuất cho các đối tượng bảo trợ xã hội trong đó có người cao tuổi, trẻ em khuyết tật, người khuyết tật, trẻ em mồ côi. Gần đây nhất, Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 nâng mức trợ cấp xã hội, trọng đó nâng cao mức chuẩn trợ cấp xã hội từ 180.000 đồng lên 270.000 đồng. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể đối tượng được hưởng hệ số khác nhau, hệ số 1 nếu không khó khăn, hệ số 2-4 nếu đối tượng có hoàn cảnh khó khăn khác nhau. Việc nâng mức chuẩn trợ cấp cho các đối tượng lên đồng loạt 270.000 đồng/người/tháng và thực hiện đầy đủ các chính sách quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP trong bối cảnh khó khăn về ngân sách là sự cố gắng lớn của Chính phủ. Vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin nghiên cứu ý kiến này để trình cơ quan có thẩm quyền vào thời gian thích hợp.

   164. Cử tri tỉnh Đắk Lắk  kiến nghị: Cử tri kiến nghị với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nghiên cứu quy định thủ tục hưởng chế độ đối với người có công, người tham gia kháng chiến chống Mỹ, thanh niên xung phong, truy quét fulro… được thuận tiện hơn, linh hoạt hơn, vì hiện nay nhiều trường hợp không còn giấy tờ gốc, không còn nhớ thủ trưởng cũ hoặc nhân chứng nữa nên thiếu hồ sơ, hoàn thiện thủ tục theo quy định hiện hành khó thực hiện.

Trả lời: Tại công văn số 1343/LĐTBXH-VP  ngày 11/4/2017

- Đối với thanh niên xung phong đã hoàn thành nhiệm vụ trong kháng chiến đề nghị hưởng chế độ theo Quyết định 40/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27/7/2011:

Hồ sơ xét hưởng chế độ trợ cấp và trình tự giải quyết chế độ trợ cấp không yêu cầu bắt buộc phải có giấy tờ gốc hoặc giấy tờ liên quan, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 4 và điểm a khoản 4 Điều 5 Thông tư số 08/2012/TTLT-BLĐTBXH-BNV-BTC ngày 16/4/2012 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 40/2011/QĐ-TTg. Theo đó, đối với những trường hợp thanh niên xung phong không còn một trong các giấy tờ quy định thì phải nộp bản khai có chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đăng ký hộ khẩu thường trú trước khi tham gia thanh niên xung phong (về mặt hồ sơ) và phải được Hội cựu thanh niên xung phong cấp tỉnh kiểm tra, xác nhận cho ý kiến theo đề nghị của Sở Nội vụ (về mặt trình tự, thủ tục).

- Đối với người tham gia kháng chiến chống Mỹ, truy quét fulro: Hồ sơ xét hưởng chế độ được quy định tại Quyết định số 290/2005/QĐ-TTg ngày 08/11/2005 và Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp thu kiến nghị của cử tri để đề nghị Bộ Quốc phòng xem xét, đề xuất theo thẩm quyền.

2. Đề nghị phải có cơ chế đặc thù, chính sách vùng để giải quyết việc làm cho sinh viên dân tộc thiểu số đã ra trường, nhất là số sinh viên cử tuyển. Vì, nếu tình trạng sinh viên dân tộc thiểu số ra trường không có việc làm sẽ tạo ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội, làm cho thái độ, ý thức học tập của các em học sinh dân tộc thiểu số giảm xuống, không muốn tiếp tục học cao hơn vì cho rằng học xong cũng không xin được việc làm.

Để giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và thanh niên nói riêng, trong đó có thanh niên, sinh viên đã tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng (bao gồm cả sinh viên là con em đồng bào dân tộc thiểu số) đòi hỏi sự tham gia của các ngành, các cấp và trực tiếp là các địa phương, việc đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại địa phương có ý nghĩa quyết định trong việc đẩy mạnh giải quyết việc làm tại chỗ cho thanh niên, sinh viên, góp phần sử dụng nguồn nhân lực trẻ, có chất lượng và đảm bảo an sinh xã hội.

Riêng đối với sinh viên dân tộc thiểu số theo diện cử tuyển, trách nhiệm tiếp nhận, xét tuyển vào vị trí việc làm sau khi tốt nghiệp đã được quy định tại Khoản 2 Điều 11 Văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGDĐT ngày 30/10/2015 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (hợp nhất Nghị định số 134/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ về chế độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và Nghị định số 49/2015/NĐ-CP ngày 15/5/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 134/2006/NĐ-CP), theo đó: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo việc tiếp nhận hồ sơ và xét tuyển hoặc gửi hồ sơ tới các cơ quan, đơn vị dự kiến sử dụng để xét tuyển vào vị trí việc làm theo quy định tại Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức đối với người được cử đi học theo chế độ cử tuyển sau khi tốt nghiệp”.

Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách nhằm hỗ trợ tạo việc làm cho người lao động, nhất là thanh niên như: hoạt động vay vốn tạo việc làm với lãi suất ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm, đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; đẩy mạnh công tác tư vấn, giới thiệu việc làm, dự báo thị trường lao động, kết nối cung - cầu lao động; hỗ trợ đào tạo nghề và tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất; hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho người lao động thất nghiệp...

Thời gian tới, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, xây dựng các chính sách hỗ trợ việc làm cho người lao động, trong đó chủ yếu là thanh niên, đồng thời trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án hỗ trợ thanh niên lập nghiệp, khởi sự doanh nghiệp giai đoạn 2017-2020; tổ chức thực hiện dự án hỗ trợ phát triển thị trường lao động và việc làm trong Chương trình mục tiêu giáo dục nghề nghiệp - việc làm và an toàn lao động giai đoạn 2016-2020 để hỗ trợ thanh niên, trong đó có thanh niên là đồng bào dân tộc thiểu số tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học sớm tìm được việc làm.

3. Kiến nghị Chính phủ nghiên cứu, sắp xếp lại hệ thống các cơ sở đào tạo nghề cho hợp lý; rà soát nhu cầu đào tạo nghề của nhân dân, nhu cầu về lao động theo ngành nghề của các doanh nghiệp và khả năng đào tạo của các cơ sở dạy nghề nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả của hoạt động dạy nghề, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.

Triển khai Luật Giáo dục nghề nghiệp và Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 03/9/2016 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 năm 2016.  Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương rà soát, sắp xếp lại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Trên cơ sở đó xây dựng Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp Việt Nam. 

Sau khi có quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp Việt Nam, các bộ, ngành, địa phương căn cứ vào Quy hoạch để ban hành quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc phạm vi quản lý phù hợp với nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực, cơ cấu ngành nghề theo định hướng phát triển của bộ, ngành, địa phương và nhu cầu của doanh nghiệp.

4. Cử tri cho rằng nhiều chính sách giảm nghèo của Nhà nước chưa thực sự hiệu quả, chưa phù hợp với thực tế áp dụng của từng địa phương, như: Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg ngày 07/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn là quá thấp, cụ thể: (1) Đối với người dân thuộc hộ nghèo ở xã khu vực II, xã biên giới, xã bãi ngang, hải đảo vùng khó khăn là 80.000 đồng/người/năm; (2) Đối với người dân thuộc hộ nghèo ở xã khu vực III vùng khó khăn là 100.000 đồng/người/năm. Cử tri đề nghị Chính phủ nghiên cứu ban hành các chính sách giảm nghèo, trong đó có các chính sách dân tộc một cách đồng bộ, tránh tình trạng dàn trải, thiếu tập trung trong thời gian qua.

Thực hiện Quyết định số 2324/QĐ-TTg ngày 19/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động triển khai Nghị quyết số 76/2014/QH13 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, Bộ Lao động  - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tiến hành rà soát, tích hợp, sửa đổi chính sách giảm nghèo theo hướng hệ thống hơn, giảm đầu mối văn bản, tập trung, hiệu quả, khắc phục tình trạng đầu tư, hỗ trợ dàn trải, hạn chế các chính sách hỗ trợ cho không, tăng chính sách hỗ trợ có điều kiện, có hoàn trả, mở rộng chính sách hỗ trợ đối với hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo (Báo cáo số 438/BC-CP ngày 17 tháng  10  năm 2016 của Chính phủ gửi Quốc hội).

Hiện nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang tích cực phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh việc rà soát, tích hợp, sửa đổi chính sách giảm nghèo, sắp xếp, điều chỉnh theo hướng tập trung chính sách, nguồn lực, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp; đề xuất bãi bỏ những chính sách có mức hỗ trợ nhỏ lẻ, hiệu quả thấp, không còn phù hợp với thực tiễn; đề xuất các giải pháp thực hiện chính sách, Chương trình giảm nghèo giai đoạn 2016-2020 đạt hiệu quả tốt hơn.

165. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Kiến nghị Chính phủ sớm hoàn thành quy hoạch mạng lưới các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề và trung tâm dạy nghề trong cả nước. Đồng thời sớm ban hành và hướng dẫn các địa phương xây dựng đề án đặt hàng, tạo sự kết nối giữa trường dạy nghề với tổ chức, doanh nghiệp sử dụng lao động, nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho lao động, nhất là lao động nông thôn”

Trả lời: Tại công văn số 1337/LĐTBXH-VP  ngày 14/4/2017

1. Về quy hoạch mạng lưới các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề và trung tâm dạy nghề trong cả nước:

Triển khai Luật Giáo dục nghề nghiệp và Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 03/9/2016 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 năm 2016.  Hiện nay, Bộ LĐTBXH đang chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương rà soát, sắp xếp lại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Trên cơ sở đó xây dựng Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp Việt Nam (dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Quý III/2017). 

Sau khi có quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp Việt Nam, các bộ, ngành, địa phương căn cứ vào Quy hoạch để ban hành quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc phạm vi quản lý phù hợp với nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực, cơ cấu ngành nghề theo định hướng phát triển của bộ, ngành, địa phương và nhu cầu của doanh nghiệp.

2. Về đề án đặt hàng và hướng dẫn các địa phương xây dựng đề án đặt hàng.

Về đề án đặt hàng đào tạo nghề: Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan xây dựng Đề án “Hoàn thiện cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ tổ chức đào tạo đối với các cơ sở dạy nghề cung ứng một số ngành nghề trọng điểm, nghề đáp ứng nhu cầu cho các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước; nghề nặng nhọc độc hại, khó tuyển sinh mà nhu cầu sản xuất đang cần tuyển dụng; nghề mà thị trường lao động đang thiếu nhưng do chi phí đào tạo cao nên các trường dạy nghề không muốn đào tạo. Ưu tiên đối tượng là người có công với cách mạng, dân tộc thiểu số, người khuyết tật, hộ nghèo; người bị thu hồi đất canh tác”.

Tuy nhiên, tại văn bản số 18815/BTC-HCSN ngày 17/12/2015 của Bộ Tài chính về tham gia ý kiến dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án trên, Bộ Tài chính có ý kiến như sau: Đối với các nội dung quy định về triển khai, tổ chức thực hiện cơ chế đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ hiện nay thực hiện theo quy định tại Luật đấu thầu năm 2013, các văn bản hướng dẫn Luật, Quyết định số 39/2008/QĐ-TTg ngày 14/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ về đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước và Thông tư số 105/2008/TT-BTC ngày 13/11/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều của Quyết định số 39/2008/QĐ-TTg. Do vậy, đề nghị Bộ LĐTBXH báo cáo Thủ tướng Chính phủ không cần thiết phải ban hành Quyết định quy định cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo một số ngành, nghề sử dụng ngân sách nhà nước và đề nghị Bộ LĐTBXH trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản để sớm triển khai Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.

166. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Ctri tiếp tc đnghbsung Nghđnh s31/2013/NĐ-CP quy đnh htrbo him y tế và các chế đchính sách khác đi vi vhoc chng lit sĩ tái giá như đi vi thân nhân lit sĩ theo quy đnh ca Pháp lnh ưu đãi ngưi có công vi cách mng. Cũng có nơi ctri đnghị nên cân nhắc xem xét li trưng hp này có nên hay không. Nội dung này trái chiều nhau (kiến nghị số 17).

Trả lời: Tại công văn số 1352/LĐTBXH-VP  ngày  12/4/2017

Tiếp thu ý kiến của cử tri, dự kiến trong thời gian tới, khi Chính phủ cho phép sửa đổi Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ đề xuất bổ sung chế độ bảo hiểm y tế đối với vợ liệt sĩ tái giá.

2. Cử tri kiến nghị xem xét mỗi tháng trợ cấp cho thân nhân thờ cúng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, thờ cúng liệt sĩ (kiến nghị số 18).

Theo quy định tại Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng (sửa đổi, bổ sung năm 2012), trong số các đối tượng người có công thì liệt sĩ là người đã trực tiếp hy sinh bản thân vì Tổ quốc. Vì vậy, riêng đối với liệt sĩ, chính sách ưu đãi người có công có những quy định về lễ an táng, truy điệu liệt sĩ, xây dựng, quản lý các công trình liệt sĩ và chế độ thờ cúng liệt sĩ hàng năm.

Bà mẹ Việt Nam anh hùng khi còn sống được hưởng các chế độ ưu đãi đối với thân nhân liệt sĩ và chế độ ưu đãi đối với danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Khi Bà mẹ Việt Nam anh hùng cũng như các đối tượng người có công khác (cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa, Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động thời kỳ kháng chiến, thương binh,…) từ trần thì thân nhân được hưởng trợ cấp mai táng phí và trợ cấp một lần theo quy định hiện hành là phù hợp.

Việc đề xuất chính sách mới phải đảm bảo phù hợp với điều kiện ngân sách và đảm bảo cân đối với mặt bằng chính sách chung. Theo đó, việc bổ sung chế độ thờ cúng Bà mẹ Việt Nam anh hùng trong hoàn cảnh hiện nay là chưa khả thi.

Về mức thờ cúng, trước ngày 01/01/2013, văn bản pháp quy không quy định chế độ trợ cấp thờ cúng hàng năm. Tiếp thu kiến nghị cử tri và đại biểu quốc hội, từ ngày 01/01/2013, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định: “Liệt sĩ không còn thân nhân thuộc diện hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng thì người được giao thờ cúng liệt sĩ được hưởng trợ cấp mỗi năm một lần”.

Ngày 09/4/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2013/NĐ-CP, trong đó quy định: Liệt sĩ không còn người hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng thì người thờ cúng được hưởng trợ cấp thờ cúng mỗi năm một lần, mức 500.000 đồng/tháng. Đây là khoản hỗ trợ việc thờ cúng liệt sĩ, không phải trợ cấp đảm bảo cuộc sống cho người thờ cúng. Vì vậy, quyết định chi trả chế độ hàng năm nhằm thuận tiện cho việc thực hiện chi trả chế độ ưu đãi.

3. Đề nghị hạ độ tuổi trợ cấp của người cao tuổi xuống còn 75 tuổi và tăng mức trợ cấp hàng tháng để động viên người cao tuổi; đồng thời tăng mức trợ cấp cho người cao tuổi và người tàn tật.

Đề nghị nghiên cứu, sửa Luật Người cao tuổi theo hướng cho tất cả những người đến 80 tuổi được hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng, không phân biệt cán bộ hưu trí với các đối tượng khác, nhằm đảm bảo sự công bằng trong thụ hưởng các chính sách bảo trợ xã hội của Nhà nước cho cùng một đối tượng; đồng thời xem xét giảm độ tuổi được hưởng chính sách này từ 80 tuổi xuống còn 75 tuổi, do hiện nay ở nông thôn vào độ tuổi này sức khỏe các cụ đã giảm nhiều; Bởi, theo ý kiến của các cụ, đây là chính sách của Đảng và Nhà nước đã động viên rất lớn đến tinh thần, giúp các cụ phấn đấu đẻ sống vui, sống khỏe.

- Về kiến nghị cho tất cả những người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng và đề nghị hạ độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội xuống 75 tuổi:

Tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tổng hợp, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định khi sửa Luật Người cao tuổi.

- Về kiến nghị nâng mức trợ xấp xã hội đối với người cao tuổi, người tàn tật:

Trong thời gian qua, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã nhiều lần trình Chính phủ ban hành văn bản mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội, điều chỉnh tăng mức trợ cấp, mức trợ giúp đột xuất cho các đối tượng bảo trợ xã hội trong đó có người cao tuổi, trẻ em khuyết tật, người khuyết tật, trẻ em mồ côi. Gần đây nhất, Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 nâng mức trợ cấp xã hội, trọng đó nâng cao mức chuẩn trợ cấp xã hội từ 180.000 đồng lên 270.000 đồng. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể đối tượng được hưởng hệ số khác nhau, hệ số 1 nếu không khó khăn, hệ số 2-4 nếu đối tượng có hoàn cảnh khó khăn khác nhau. Việc nâng mức chuẩn trợ cấp cho các đối tượng lên đồng loạt 270.000 đồng/người/tháng và thực hiện đầy đủ các chính sách quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP trong bối cảnh khó khăn về ngân sách là sự cố gắng lớn của Chính phủ. Vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin nghiên cứu ý kiến này để trình cơ quan có thẩm quyền vào thời gian thích hợp.

167. Cử tri tỉnh Hà Giang kiến nghị: Đề nghị điều chỉnh, nâng mức lương tối thiểu vùng IV lên tương đương mức lương tối thiểu vùng I, II (theo quy định của Nghị định số 122/2015/NĐ-CP ngày 14/11/2015 của Chính phủ) để các doanh nghiệp, hợp tác xã ở các địa bàn vùng cao, vùng sâu, vùng xa thu hút người lao động có tay nghề cao, góp phần phát triển sản xuất kinh doanh.

Trả lời: Tại công văn số 1337/LĐTBXH-VP  ngày  11/4/2017

Thực hiện quy định tại Điều 91 của Bộ luật Lao động, Chính phủ đã quy định địa bàn áp dụng tiền lương tối thiểu thành 04 vùng theo địa giới hành chính cấp quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Việc phân vùng dựa vào điều kiện kinh tế xã hội, mức sống dân cư, thị trường lao động và mức tiền lương trên thị trường lao động của từng vùng. Đồng thời, hằng năm khi xây dựng Nghị định quy định mức lương tối thiểu vùng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đều có văn bản đề nghị các địa phương rà soát địa bàn áp dụng mức lương tối thiểu vùng gửi về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để tổng hợp, báo cáo Chính phủ điều chỉnh cho phù hợp. Qua quá trình thực hiện, nhìn chung việc phân vùng các địa bàn áp dụng mức lương tối thiểu theo 4 vùng về cơ bản phù hợp với thực tế của các địa phương, vì vậy trường hợp cử tri tỉnh Hà Giang thấy địa bàn áp dụng tiền lương tối thiểu nào không hợp lý thì đề nghị báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang tiến hành rà soát và gửi ý kiến đề xuất điều chỉnh về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để tổng hợp, báo cáo Chính phủ điều chỉnh trong thời gian tới.

168. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Cử tri phản ánh bệnh binh hiện nay hưởng trợ cấp có 880.000 đồng/ tháng, việc điều dưỡng hàng năm mới áp dụng cho những người tham gia kháng chiến chống mỹ. Đề nghị Nhà nước tăng trợ cấp đối với bệnh binh nên bằng mức lương tối thiểu và áp dụng việc điều dưỡng hàng năm cho mọi đối tượng tham gia kháng chiến.

Trả lời: Tại công văn số 1341/LĐTBXH-VP  ngày 11/4/2017

Theo quy định hiện hành, bệnh binh được trợ cấp ưu đãi hàng tháng theo tỷ lệ giảm khả năng lao động. Mức trợ cấp ưu đãi hàng tháng đối với bệnh binh theo quy định hiện hành gồm các mức:1.376.000 đồng, 1.713.000 đồng, 2.184.000 đồng, 2.519.000 đồng, 3.015.000 đồng và 3.357.000 đồng, các mức trợ cấp hiện hưởng đều cao hơn mức lương cơ sở hiện nay là 1.210.000 đồng; ngoài chế độ trợ cấp bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên còn được hưởng phụ cấp, bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên còn được hưởng phụ cấp ưu đãi hàng tháng với 2 mức 661.000 đồng/tháng và 1.318.000 đồng/tháng tùy theo tình trạng bệnh tật.

Theo quy định tại Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, các chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân của họ được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từ thời kỳ. Trong điều kiện kinh tế đất nước còn gặp nhiều khó khăn, nhưng Đảng và Nhà nước vẫn dành một phần không nhỏ ngân sách để đảm bảo thực hiện các chế độ ưu đãi người có công, trong đó có chế độ điều dưỡng. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin nghiên cứu ý kiến này để trình cơ quan có thẩm quyền vào thời gian thích hợp.

2. Đề nghị xem xét có giải pháp thưc hiện hiệu quả hơn Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” để người dân tìm được việc làm ổn định (kiến nghị số 39).

Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án) được thực hiện từ năm 2010. Sau 7 năm thực hiện, đã có trên 3,2 triệu lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề, trong đó trên 50% lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề là nữ, 22,3% người dân tộc thiểu số, 10,2% người thuộc hộ nghèo; 2% người bị thu hồi đất, 1,5% người khuyết tật, còn lại là lao động nông thôn khác.

Từ năm 2016, đào tạo nghề cho lao động nông thôn là một nội dung trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, được phê duyệt tại Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ. Để đảm bảo thực hiện hiệu quả Đề án, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương:

1. Tổ chức đánh giá 07 năm (2010 - 2016) thực hiện Đề án, rà soát tiến độ từng năm để phấn đấu hoàn thành mục tiêu Đề án đến năm 2020. Trên cơ sở đó, xây dựng và điều chỉnh Đề án hoặc Kế hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2016 - 2020 của địa phương; đề xuất mục tiêu, nhiệm vụ năm 2017. Trong đó, lưu ý rà soát, cập nhật, bổ sung nhu cầu đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo yêu cầu tái cơ cấu ngành nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại địa phương; làm rõ chỉ tiêu, nhiệm vụ hỗ trợ đào tạo nghề đối với lao động nông thôn, người khuyết tật, lao động nữ; đào tạo nghề nông nghiệp, nghề phi nông nghiệp hàng năm, 05 năm theo các nội dung hoạt động quy định tại Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009, Quyết định số 971/QĐ-TTg ngày 01/7/2015 và Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ.

2. Tiếp tục rà soát, xây dựng, phê duyệt danh mục nghề đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 03 tháng; mức chi phí đào tạo đối với từng nghề, mức hỗ trợ cụ thể đối với từng đối tượng theo quy định tại Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg ngày 28/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng và Thông tư hướng dẫn số 152/2016/TT-BTC ngày 17/10/2016 của Bộ Tài chính.

3. Tổ chức đào tạo nghiệp vụ sư phạm đối với người được tuyển làm giáo viên trung tâm giáo dục nghề nghiệp; đào tạo giáo viên giảng dạy kiến thức kinh doanh và khởi sự doanh nghiệp cho lao động nông thôn; tổ chức bồi dưỡng kỹ năng dạy học đối với người dạy nghề là nghệ nhân, nông dân sản xuất giỏi, kỹ sư, cán bộ kỹ thuật, người có tay nghề cao để tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn; bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý và tư vấn đào tạo nghề, tư vấn việc làm cho lao động nông thôn đối với cán bộ quản lý cấp tỉnh, cấp huyện, xã, cơ sở đào tạo nghề; bồi dưỡng nghiệp vụ giám sát việc tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại xã đối với cán bộ Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

4. Tổ chức triển khai hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 03 tháng đối với lao động nông thôn, người khuyết tật, lao động nữ theo quy định tại Quyết định số 971/QĐ-TTg ngày 01/7/2015, Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg ngày 28/9/2015, Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ phủ đảm bảo hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra.

5.  Rà soát, đánh giá lại kết quả đầu tư và hoạt động của các trung tâm giáo dục nghề nghiệp công lập cấp huyện, trung tâm dịch vụ việc làm thanh niên, trường trung cấp thủ công mỹ nghệ, trường trung cấp công lập ở những huyện chưa có trung tâm giáo dục nghề nghiệp công lập cấp huyện giai đoạn 2010-2015 và đề xuất nhu cầu hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo, phương tiện vận chuyển đào tạo nghề lưu động đối với các cơ sở này trong giai đoạn 2016-2020.

6. Chỉ đạo rà soát, kiện toàn Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án và Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo các cấp ở địa phương. 

7. Tăng cường công tác tuyên truyền về đào tạo nghề, tạo việc làm đối với lao động nông thôn, người khuyết tật, lao động nữ; công tác kiểm tra, giám sát việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

3. Đề nghị hạ độ tuổi trợ cấp của người cao tuổi xuống còn 75 tuổi và tăng mức trợ cấp hàng tháng để động viên người cao tuổi; đồng thời tăng mức trợ cấp cho người cao tuổi và người tàn tật.

- Về kiến nghị hạ độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội của người cao tuổi xuống còn 75 tuổi:

Tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ tổng hợp, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định khi sửa Luật Người cao tuổi.

- Về kiến nghị nâng mức trợ xấp xã hội đối với người cao tuổi, người tàn tật:

Trong thời gian qua, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã nhiều lần trình Chính phủ ban hành văn bản mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội, điều chỉnh tăng mức trợ cấp, mức trợ giúp đột xuất cho các đối tượng bảo trợ xã hội trong đó có người cao tuổi, trẻ em khuyết tật, người khuyết tật, trẻ em mồ côi. Gần đây nhất, Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 nâng mức trợ cấp xã hội, trọng đó nâng cao mức chuẩn trợ cấp xã hội từ 180.000 đồng lên 270.000 đồng. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể đối tượng được hưởng hệ số khác nhau, hệ số 1 nếu không khó khăn, hệ số 2-4 nếu đối tượng có hoàn cảnh khó khăn khác nhau. Việc nâng mức chuẩn trợ cấp cho các đối tượng lên đồng loạt 270.000 đồng/người/tháng và thực hiện đầy đủ các chính sách quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP trong bối cảnh khó khăn về ngân sách là sự cố gắng lớn của Chính phủ. Vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin nghiên cứu ý kiến này để trình cơ quan có thẩm quyền vào thời gian thích hợp.

4. Hiện nay nhiều gia đình con cái có điều kiện nhưng khi bình xét hộ nghèo thì tách hộ cho bố mẹ để bố mẹ được hưởng tiêu chuẩn hộ nghèo. Đề nghị Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan cần tiếp tục rà soát, nghiên cứu để điều chỉnh các tiêu chí chấm điểm hộ nghèo sát với tình hình thực tế.

Để tránh tình trạng như cử tri nêu trên, đề nghị trong quá trình điều tra, cán bộ cơ sở cần phối hợp với điều tra viên xem xét hoàn cảnh cụ thể của hộ gia đình để tìm hiểu nguyên nhân cụ thể của việc tách hộ, vận động gia đình con cái xem xét, giúp đỡ để hộ bố mẹ đẻ không rơi vào diện hộ nghèo, hộ cận nghèo; đồng thời giải thích rõ những chính sách hỗ trợ giảm nghèo hiện nay đang được Chính phủ định hướng theo hướng hỗ trợ có điều kiện, thông qua các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, vay vốn tín dụng chính sách để giúp đỡ cho những hộ gia đình có sức lao động và có khả năng thoát nghèo. Theo đó, nếu hộ gia đình bố mẹ rơi vào diện hộ nghèo sẽ chỉ được hưởng một số chính sách để đảm bảo cuộc sống, an sinh xã hội cho những hộ gia đình không còn có khả năng lao động, tạo ra thu nhập và thoát nghèo như chính sách hỗ trợ tiền điện, mua thẻ bảo hiểm y tế, bảo trợ xã hội...

Đối với những trường hợp hộ gia đình con cái không thể hỗ trợ bố mẹ để thoát khỏi diện hộ nghèo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng đã có ý kiến với các địa phương để các hộ gia đình bố mẹ được xét vào diện hộ nghèo, qua đó nhà nước có thể hỗ trợ một phần để đảm bảo đời sống cho hộ gia đình thông qua các chính sách hỗ trợ giảm nghèo như chính sách hỗ trợ tiền điện, mua thẻ bảo hiểm y tế, bảo trợ xã hội...

169. Cử tri tỉnh Hậu Giang và Bến Tre kiến nghị: Hiện nay, tình trạng xuống cấp, quá tải tại các cơ sở cai nghiện công lập đang ở mức báo động. Nguyên nhân chính là số lượng người cai nghiện ngày càng đông nhưng cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn, chật hẹp, lực lượng cán bộ, nhân viên tại các cơ sở này thiếu và yếu về chuyên môn nên dẫn đến tình trạng học viên trốn trại ra ngoài như đã xảy ra tại một số địa phương thời gian qua. Nhằm khắc phục tình trạng trên, cử tri kiến nghị Chính phủ tăng cường chức năng quản lý nhà nước tại các cơ sở cai nghiện; tăng cường tổ chức, bộ máy quản lý; đầu tư, nâng cấp các trang thiết bị phục vụ công tác điều trị tại các cơ sở cai nghiện; đồng thời, xử lý nghiêm những trường hợp chống phá, nổi loạn, đập phá cơ sở cai nghiện, chống người thi hành công vụ”

Trả lời: Tại công văn số 1367/LĐTBXH-VP  ngày 11/4/2017

Trước tình trạng số người sử dụng trái phép các chất ma túy ngày càng gia tăng trong khi một số biện pháp cai nghiện áp dụng thời gian qua chưa đạt hiệu quả như mong muốn, ngày 27/12/2013, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2596/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020.

Ngày 26/12/2014, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 98/NQ-CP về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới. Theo đó, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt là: cai nghiện nghiện ma túy là một quá trình lâu dài bao gồm tổng thể các can thiệp hỗ trợ về y tế, tâm lý, xã hội làm thay đổi nhận thức, hành vi nhằm giảm tác hại của nghiện ma túy và giảm tình trạng sử dụng ma túy trái phép; thực hiện đa dạng hóa các biện pháp và mô hình cai nghiện; tăng dần cai nghiện tự nguyện, giảm dần cai nghiện bắt buộc với lộ trình phù hợp, Nhà nước đầu tư nguồn lực và khuyến khích xã hội hóa công tác dự phòng và cai nghiện ma túy.

Thực hiện Quyết định số 2596/QĐ-TTg và Nghị quyết số 98/NQ-CP, thời gian qua các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung triển khai thực hiện các giải pháp trọng tâm như: Tăng cường thông tin, truyền thông nâng cao nhận thức về nghiện ma túy, dự phòng và cai nghiện trong đó phòng ngừa là giải pháp có tính chất chiến lược; Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dự phòng và điều trị nghiện trên tinh thần của Hiến pháp 2013 (Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật phòng, chống ma túy năm 2000, Luật sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống ma túy năm 2008, Luật xử lý vi phạm hành chính); Đổi mới, nâng cao chất lượng cai nghiện tại các cơ sở cai nghiện, tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước để nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hệ thống các cơ sở cai nghiện để đáp ứng yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ; phát triển công tác tư vấn dự phòng, chăm sóc, hỗ trợ cai nghiện tại cộng đồng, đáp ứng nhu cầu đa dạng về dịch vụ điều trị nghiện; hỗ trợ các đối tượng chính sách để họ có điều kiện tiếp cận với dịch vụ dự phòng và cai nghiện; huy động sự tham gia của cộng đồng, khuyến khích xã hội hóa công tác dự phòng và cai nghiện; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác dự phòng và điều trị nghiện; Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, các tổ chức thuộc chính phủ, phi chính phủ, các nước nhằm tranh thủ sự hỗ trợ về chuyên môn, kỹ thuật và tài chính cho công tác dự phòng và cai nghiện, phục hồi.

Ngày 03/2/2016 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ danh mục các dự án nhóm C hỗ trợ từ ngân sách Trung ương để thực hiện đổi mới công tác cai nghiện (thuộc Chương trình đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020), đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý (Công văn số 2538/VPCP-KGVX ngày 12/4/2016).

Đến nay, các dự án đầu tư nâng cấp cơ sở cai nghiện theo dự án nhóm C đối với dự án của 38 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thẩm định để địa phương triển khai thực hiện. Ngày 28/4/2016, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 04/2016/TT-BLĐTBXH ban hành Khung chương trình đào tạo về tư vấn điều trị nghiện ma túy. Đến nay, nhiều địa phương đã chủ động đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị và chủ động tổ chức tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở. Qua đó, chất lượng hoạt động của các Cơ sở cai nghiện công lập đã được cải thiện.

170. Cử tri tỉnh Hưng Yên kiến nghị: Đề nghị có văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể hơn cho Luật Thanh niên năm 2005, cụ thể tại điểm 2 Điều 25 ghi: “Chính sách của Nhà nước đối với thanh niên xung phong, được công nhận là liệt sĩ, hưởng chính sách như thương binh trong trường hợp đang làm nhiệm vụ mà hy sinh hoặc bị thương theo quy định của pháp luật”. Thực tế hiện nay phong trào thanh niên tình nguyện đang có sức lan tỏa mạnh mẽ, thu hút đông đảo các bạn đoàn viên, thanh niên tham gia tạo được một hình ảnh đẹp trong xã hội. Tuy nhiên trong quá trình tham gia tình nguyện có bị tai nạn, thậm chí là tử vong nhưng khi đề xuất được hưởng chính sách rất khó khăn (kiến nghị số 15).

Trả lời: Tại công văn số 1388/LĐTBXH-VP  ngày 11/4/2017

Khi cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên các cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội… làm các công việc được giao hàng ngày đều được gọi chung là “làm nhiệm vụ”. Vì vậy, không phải trường hợp nào bị thương, bị chết trong khi làm nhiệm vụ đều được xác nhận là thương binh, liệt sĩ (thông thường được xác nhận là tai nạn lao động).

Theo chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, chỉ những người hy sinh, bị thương khi làm nhiệm vụ đặc biệt như chiến đấu, trực tiếp phục vụ chiến đấu, làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc thể hiện tinh thần dũng cảm, xả thân vì nước, vì dân, xứng đáng được Đảng, Nhà nước, nhân dân tôn vinh và nêu gương mới được xem xét, xác nhận liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh.

Đối với thanh niên xung phong trong kháng chiến cũng như lực lượng quân đội, không phải trường hợp nào bị chết, bị thương khi làm nhiệm vụ là được xác nhận liệt sĩ, thương binh (ví dụ như các trường hợp tử sĩ), đó phải là nhiệm vụ chiến đấu, trực tiếp phục vụ chiến đấu, dũng cảm cứu tài sản của Nhà nước, của nhân dân…

Thanh niên tình nguyện là một phong trào mang tính chất tự nguyện, không phải nhiệm vụ bắt buộc. Tuy nhiên, nếu hy sinh, bị thương trong các trường hợp quy định tại Điều 17, Điều 27 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ thì đều được xem xét, xác nhận là liệt sĩ, thương binh. Trường hợp bị chết, bị thương khi làm công việc bình thường, bị tai nạn rủi ro thì không thuộc diện xác nhận liệt sĩ, thương binh.

  1. Đề nghị hạ độ tuổi trợ cấp của người cao tuổi xuống còn 75 tuổi và tăng mức trợ cấp hàng tháng để động viên người cao tuổi; đồng thời tăng mức trợ cấp cho người cao tuổi và người tàn tật .

- Về kiến nghị đề nghị hạ độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội của người cao tuổi xuống còn 75 tuổi:

Tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tổng hợp, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định khi sửa Luật Người cao tuổi.

- Về kiến nghị nâng mức trợ xấp xã hội đối với người cao tuổi, người tàn tật:

Trong thời gian qua, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã nhiều lần trình Chính phủ ban hành văn bản mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội, điều chỉnh tăng mức trợ cấp, mức trợ giúp đột xuất cho các đối tượng bảo trợ xã hội trong đó có người cao tuổi, trẻ em khuyết tật, người khuyết tật, trẻ em mồ côi. Gần đây nhất, Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 nâng mức trợ cấp xã hội, trọng đó nâng cao mức chuẩn trợ cấp xã hội từ 180.000 đồng lên 270.000 đồng. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể đối tượng được hưởng hệ số khác nhau, hệ số 1 nếu không khó khăn, hệ số 2-4 nếu đối tượng có hoàn cảnh khó khăn khác nhau.

Việc nâng mức chuẩn trợ cấp cho các đối tượng lên đồng loạt 270.000 đồng/người/tháng và thực hiện đầy đủ các chính sách quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP trong bối cảnh khó khăn về ngân sách là sự cố gắng lớn của Chính phủ. Vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin nghiên cứu ý kiến này để trình cơ quan có thẩm quyền vào thời gian thích hợp.

   171. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: Cử tri đề nghị chính sách hỗ trợ cho đối tượng bị nhiễm chất độc da cam cần thực hiện đồng bộ. Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ đối với người bị nhiễm chất độc da cam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng các chính sách hỗ trợ chưa đồng bộ. Cử tri đề nghị nhà nước quan tâm tổ chức khám đồng loạt cho các đối tượng bị nhiễm chất độc da cam để tất cả các đối tượng trên đều được hưởng chế độ hỗ trợ .

Trả lời: Tại công văn số 1311/LĐTBXH-VP  ngày 13/4/2017

Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng (sửa đổi, bổ sung năm 2012) đã sửa đổi, bổ sung chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học. Theo đó, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và thân nhân của họ đã được bổ sung các chế độ ưu đãi như đối với thương binh, bệnh binh (trợ cấp hàng tháng chia làm 04 mức, căn cứ vào tỷ lệ suy giảm khả năng lao động do bệnh tật, chế độ trợ cấp người phục vụ, phụ cấp, chế độ điều dưỡng, phục hồi sức khỏe, chế độ tuất, bảo hiểm y tế, ưu đãi giáo dục đối với thân nhân).

Chính sách ưu đãi người có công hiện hành, người hoạt động kháng chiến ở vùng Mỹ rải chất độc hóa học mắc bệnh thuộc danh mục bệnh, tật của Bộ Y tế quy định thì xác lập hồ sơ và được giới thiệu ra Hội đồng giám định y khoa để khám giám định bệnh, tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học làm căn cứ hưởng chế độ ưu đãi. Theo đó, đối với trường hợp người hoạt động kháng chiến ở vùng Mỹ sử dụng chất độc hóa học nhưng chưa mắc bệnh, tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học thì chưa có căn cứ để khám giám định đồng loạt.

  1. Cử tri đề nghị xem xét có giải pháp thưc hiện hiệu quả hơn Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” để người dân tìm được việc làm ổn định (kiến nghị số 39).

Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án) được thực hiện từ năm 2010. Sau 7 năm thực hiện, đã có trên 3,2 triệu lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề, trong đó trên 50% lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề là nữ, 22,3% người dân tộc thiểu số, 10,2% người thuộc hộ nghèo; 2% người bị thu hồi đất, 1,5% người khuyết tật, còn lại là lao động nông thôn khác.

Từ năm 2016, đào tạo nghề cho lao động nông thôn là một nội dung trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, được phê duyệt tại Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ.  Để đảm bảo thực hiện hiệu quả Đề án, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương:

(1). Tổ chức đánh giá 07 năm (2010 - 2016) thực hiện Đề án, rà soát tiến độ từng năm để phấn đấu hoàn thành mục tiêu Đề án đến năm 2020. Trên cơ sở đó, xây dựng và điều chỉnh Đề án hoặc Kế hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2016 - 2020 của địa phương; đề xuất mục tiêu, nhiệm vụ năm 2017. Trong đó, lưu ý rà soát, cập nhật, bổ sung nhu cầu đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo yêu cầu tái cơ cấu ngành nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại địa phương; làm rõ chỉ tiêu, nhiệm vụ hỗ trợ đào tạo nghề đối với lao động nông thôn, người khuyết tật, lao động nữ; đào tạo nghề nông nghiệp, nghề phi nông nghiệp hàng năm, 05 năm theo các nội dung hoạt động quy định tại Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009, Quyết định số 971/QĐ-TTg ngày 01/7/2015 và Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ.

(2). Tiếp tục rà soát, xây dựng, phê duyệt danh mục nghề đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 03 tháng; mức chi phí đào tạo đối với từng nghề, mức hỗ trợ cụ thể đối với từng đối tượng theo quy định tại Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg ngày 28/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng và Thông tư hướng dẫn số 152/2016/TT-BTC ngày 17/10/2016 của Bộ Tài chính.

(3). Tổ chức đào tạo nghiệp vụ sư phạm đối với người được tuyển làm giáo viên trung tâm giáo dục nghề nghiệp; đào tạo giáo viên giảng dạy kiến thức kinh doanh và khởi sự doanh nghiệp cho lao động nông thôn; tổ chức bồi dưỡng kỹ năng dạy học đối với người dạy nghề là nghệ nhân, nông dân sản xuất giỏi, kỹ sư, cán bộ kỹ thuật, người có tay nghề cao để tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn; bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý và tư vấn đào tạo nghề, tư vấn việc làm cho lao động nông thôn đối với cán bộ quản lý cấp tỉnh, cấp huyện, xã, cơ sở đào tạo nghề; bồi dưỡng nghiệp vụ giám sát việc tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại xã đối với cán bộ Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

(4). Tổ chức triển khai hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 03 tháng đối với lao động nông thôn, người khuyết tật, lao động nữ theo quy định tại Quyết định số 971/QĐ-TTg ngày 01/7/2015, Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg ngày 28/9/2015, Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ phủ đảm bảo hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra.

(5). Rà soát, đánh giá lại kết quả đầu tư và hoạt động của các trung tâm giáo dục nghề nghiệp công lập cấp huyện, trung tâm dịch vụ việc làm thanh niên, trường trung cấp thủ công mỹ nghệ, trường trung cấp công lập ở những huyện chưa có trung tâm giáo dục nghề nghiệp công lập cấp huyện giai đoạn 2010-2015 và đề xuất nhu cầu hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo, phương tiện vận chuyển đào tạo nghề lưu động đối với các cơ sở này trong giai đoạn 2016-2020.

(6). Chỉ đạo rà soát, kiện toàn Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án và Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo các cấp ở địa phương. 

(7). Tăng cường công tác tuyên truyền về đào tạo nghề, tạo việc làm đối với lao động nông thôn, người khuyết tật, lao động nữ; công tác kiểm tra, giám sát việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

3. Đề nghị hạ độ tuổi trợ cấp của người cao tuổi xuống còn 75 tuổi và tăng mức trợ cấp hàng tháng để động viên người cao tuổi; đồng thời tăng mức trợ cấp cho người cao tuổi và người tàn tật.

- Về kiến nghị hạ độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội của người cao tuổi xuống còn 75 tuổi:

Tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ tổng hợp, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định khi sửa Luật Người cao tuổi.

- Về kiến nghị nâng mức trợ xấp xã hội đối với người cao tuổi, người tàn tật:

Trong thời gian qua, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã nhiều lần trình Chính phủ ban hành văn bản mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội, điều chỉnh tăng mức trợ cấp, mức trợ giúp đột xuất cho các đối tượng bảo trợ xã hội trong đó có người cao tuổi, trẻ em khuyết tật, người khuyết tật, trẻ em mồ côi. Gần đây nhất, Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 nâng mức trợ cấp xã hội, trọng đó nâng cao mức chuẩn trợ cấp xã hội từ 180.000 đồng lên 270.000 đồng. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể đối tượng được hưởng hệ số khác nhau, hệ số 1 nếu không khó khăn, hệ số 2-4 nếu đối tượng có hoàn cảnh khó khăn khác nhau. Việc nâng mức chuẩn trợ cấp cho các đối tượng lên đồng loạt 270.000 đồng/người/tháng và thực hiện đầy đủ các chính sách quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP trong bối cảnh khó khăn về ngân sách là sự cố gắng lớn của Chính phủ. Vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin nghiên cứu ý kiến này để trình cơ quan có thẩm quyền vào thời gian thích hợp.

4. Kiến nghị việc sửa đổi chính sách hỗ trợ hộ nghèo. Hiện nay, Nhà nước đang thực hiện Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg ngày 07/8/2009 của Chính phủ về chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn. Tuy nhiên, trong thực tế chính sách này còn nhiều bất cập. Cử tri đề nghị chuyển đổi hình thức hỗ trợ mang tính trợ cấp trực tiếp sang hỗ trợ gián tiếp tăng cường đầu tư cơ sở vật chất như đường giao thông, hệ thống điện, trường học, trạm y tế và phát triển kinh tế để thoát nghèo.

Thực hiện Quyết định số 2324/QĐ-TTg ngày 19/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động triển khai Nghị quyết số 76/2014/QH13 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tiến hành rà soát, tích hợp, sửa đổi chính sách giảm nghèo theo hướng hệ thống hơn, giảm đầu mối văn bản, tập trung, hiệu quả, khắc phục tình trạng đầu tư, hỗ trợ dàn trải, hạn chế các chính sách hỗ trợ cho không, tăng chính sách hỗ trợ có điều kiện, hỗ trợ hoàn trả, mở rộng chính sách hỗ trợ đối với hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo.

Hiện nay, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang tích cực phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh việc rà soát, tích hợp, sửa đổi chính sách giảm nghèo, sắp xếp, điều chỉnh theo hướng tập trung chính sách, nguồn lực, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp; đề xuất bãi bỏ những chính sách có mức hỗ trợ nhỏ lẻ, hiệu quả thấp, không còn phù hợp với thực tiễn; đề xuất các giải pháp thực hiện chính sách, Chương trình giảm nghèo giai đoạn 2016-2020 đạt hiệu quả tốt hơn.

   172. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Cử tri đề nghị xem xét lại việc giải quyết trợ cấp thờ cúng liệt sĩ đối với vợ liệt sĩ tái giá, theo đó, vợ liệt sĩ tái giá được trợ cấp 500.000 đồng/năm, trong khi đó vợ liệt sĩ không tái giá thì không được hưởng. Cử tri cho rằng có sự mâu thuẫn trong cách hiểu và giải thích Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 ngày 16/7/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh và Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực hiện các chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân. Đề nghị Chính phủ rà soát, điều chỉnh, sửa đổi và có hướng dẫn thống nhất để các địa phương triển khai. Đồng thời xem xét, nâng mức trợ cấp mỗi năm cho người thờ cúng liệt sĩ từ 500.000 đồng/năm lên 1.000.000 đồng/năm. Hiện tại, mức trợ cấp 500.000 đồng/ năm cho người thờ cúng liệt sĩ là quá thấp.

Trả lời: Tại công văn số 1376/LĐTBXH-VP  ngày 14/4/2017

Theo quy định tại Điều 2 Thông tư số 16/2014/TT-BLĐTBXH ngày 30/7/2014 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trường hợp liệt sĩ có nhiều con thì người thờ cúng liệt sĩ là một người con được những người con còn lại ủy quyền. Trường hợp liệt sĩ không có hoặc không còn con thì người thờ cúng là người được gia đình hoặc họ tộc liệt sĩ ủy quyền. Việc chọn người đại diện thờ cúng hoàn toàn do gia đình liệt sĩ tự quyết định, Nhà nước không can thiệp, không có quy định nào buộc phải giao thờ cúng liệt sĩ cho vợ liệt sĩ tái giá và cũng không có quy định nào cấm vợ liệt sĩ tái giá được hưởng trợ cấp thờ cúng nếu được gia đình liệt sĩ ủy quyền.

Kiến nghị đề nghị xem xét, nâng mức trợ cấp thờ cúng liệt sĩ của cử tri, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ nghiên cứu, báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định khi sửa đổi Nghị định số 31/2013/NĐ-CP.

  1. Xem xét, nâng chế độ hưởng lương hưu cho những người về hưu trước năm 2001, vì hiện tại những cán bộ về hưu trước năm 2001 lương rất thấp so với những người về hưu sau năm 2001.

Một trong những nguyên tắc bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội là “mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội”, mức lương hưu hàng tháng của người lao động được tính trên cơ sở thời gian đóng bảo hiểm xã hội và mức tiền lương làm căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội. Như vậy, mức lương hưu của người nghỉ hưu cao hay thấp sẽ phụ thuộc vào thời gian đóng, mức tiền lương của người lao động khi còn làm việc.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới đời sống của những người nghỉ hưu, trong đó có người nghỉ hưu trước năm 2001. Trong giai đoạn 2003 - 2007, Chính phủ đã 05 lần điều chỉnh lương hưu với mức tăng từ 164,8% đến 228,8% (tuỳ thuộc vào mức lương khi nghỉ hưu và thời điểm nghỉ hưu) so với mức lương hưu của tháng 12 năm 2002, trong đó người nghỉ hưu trước tháng 9 năm 1985 và trước tháng 4 năm 1993 được điều chỉnh với tỷ lệ cao hơn những người nghỉ hưu ở giai đoạn từ tháng 4 năm 1993 trở về sau. Trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay, Chính phủ cũng đã 08 lần điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng với mức tăng thêm 168,5% so với cuối năm 2007.

Thông qua việc thực hiện điều chỉnh lương hưu nêu trên, đời sống của người nghỉ hưu từng bước được cải thiện và Chính phủ cũng đã thực hiện các biện pháp nhằm giảm bớt chênh lệch lương hưu của người nghỉ hưu giữa các thời kỳ. Tuy nhiên, do chính sách bảo hiểm xã hội được thực hiện theo nguyên tắc đóng- hưởng, tiền lương của người lao động ở thời kỳ sau luôn có xu hướng được cải thiện hơn so với thời kỳ trước và do đó khi nghỉ hưu cũng thường có mức lương hưu cao hơn, việc điều chỉnh lương hưu nhằm đảm bảo sự tương quan về mức lương hưu giữa các thời kỳ nhưng cũng chưa xử lý triệt để được.

Riêng đối với những người nghỉ hưu có mức lương hưu thấp, ngày 11/11/2015, trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 99/2015/QH13 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016, theo đó “Từ ngày 01/01/2016, thực hiện điều chỉnh tiền lương đối với người có mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động dưới 2.000.000 đồng/tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian công tác trước năm 1995 để lương hưu của các đối tượng này đạt mức lương cơ sở...”

Triển khai Nghị quyết số 99/2015/QH13 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2016/NĐ-CP ngày 15/6/2016 điều chỉnh mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian làm việc trước năm 1995; ngày 15/7/2016, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 23/2016/TT-BLĐTBXH hướng dẫn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng. Theo đó từ ngày 01/01/2016, tăng thêm 250.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng lương hưu có mức lương hưu dưới 2 triệu đồng/tháng và tăng thêm 150.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng với mức trợ cấp dưới 2 triệu đồng/tháng.

Trên cơ sở kết quả thực hiện việc điều chỉnh lương hưu, trợ cấp nêu trên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành để rà soát, đánh giá và đề xuất các phương án điều chỉnh lương hưu cho các giai đoạn tiếp theo.

  1. Theo điểm b khoản 5 Điều 5 Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội quy định: “ Người từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc diện quy định tại điểm a khoản này mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng” được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Cử tri kiến nghị Chính phủ xem xét sửa đổi điểm b khoản 5 Điều 5 Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ vì quy định như vậy là không công bằng vì người từ đủ 80 tuổi trở lên, không nên phân biệt có hay không có lương hưu.
  2. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 17 Luật Người cao tuổi thì đối tượng người cao tuổi được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng là người từ đủ 80 tuổi trở lên không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng. Đây là chính sách trợ giúp xã hội đối với người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên không có nguồn thu nhập như lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội hàng tháng, nhằm hỗ trợ người cao tuổi bớt khó khăn trong cuộc sống, không phải là chính sách “ưu đãi” người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên nói chung. Vì vậy, người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên đã có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng thì không thuộc đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng.

4. Theo Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 của Chính phủ quy định chế độ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện tập trung được thực hiện qua hàng loạt thủ tục quy trình với thời gian khoảng gần 02 năm. Cử tri kiến nghị Chính phủ xem xét rút ngắn thời gian, giảm bớt các thủ tục rườm rà vô tình trói tay các cơ quan thực thi pháp luật, cũng như giúp con nghiện tiếp tục gieo rắc nỗi lo cho gia đình, cho xã hội trong thời gian chờ đưa đi cai nghiện bắt buộc .

Trước tình trạng số người sử dụng trái phép các chất ma túy ngày càng gia tăng trong khi một số biện pháp cai nghiện áp dụng thời gian qua chưa đạt hiệu quả như mong muốn, ngày 27/12/2013 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2596/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020, ngày 26/12/2014 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 98/NQ-CP về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới. Theo đó, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt là: cai nghiện nghiện ma túy là một quá trình lâu dài bao gồm tổng thể các can thiệp hỗ trợ về y tế, tâm lý, xã hội làm thay đổi nhận thức, hành vi nhằm giảm tác hại của nghiện ma túy và giảm tình trạng sử dụng ma túy trái phép; thực hiện đa dạng hóa các biện pháp và mô hình cai nghiện; tăng dần cai nghiện tự nguyện, giảm dần cai nghiện bắt buộc với lộ trình phù hợp; Nhà nước đầu tư nguồn lực và khuyến khích xã hội hóa công tác dự phòng và cai nghiện ma túy.

Thực hiện Quyết định số 2596/QĐ-TTg và Nghị quyết số 98/NQ-CP, thời gian qua các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung triền khai thực hiện các giải pháp trọng tâm như: Tăng cường thông tin, truyền thông nâng cao nhận thức về nghiện ma túy, dự phòng và cai nghiện trong đó phòng ngừa là giải pháp có tính chất chiến lược; Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dự phòng và điều trị nghiện trên tinh thần của Hiến pháp 2013 (Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật phòng, chống ma túy năm 2000, Luật sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống ma túy năm 2008, Luật xử lý vi phạm hành chính); Đổi mới, nâng cao chất lượng cai nghiện tại các cơ sở cai nghiện, tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước để nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hệ thống các cơ sở cai nghiện để đáp ứng yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ; phát triển công tác vấn dự phòng, chăm sóc, hỗ trợ cai nghiện tại cộng đồng, đáp ứng nhu cầu đa dạng về dịch vụ điều trị nghiện; hỗ trợ các đối tượng chính sách để họ có điều kiện tiếp cận với dịch vụ dự phòng và cai nghiện; huy động sự tham gia của cộng đồng, khuyến khích xã hội hóa công tác dự phòng và cai nghiện; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác dự phòng và điều trị nghiện; Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, các tổ chức thuộc chính phủ, phi chính phủ, các nước nhằm tranh thủ sự hỗ trợ về chuyên môn, kỹ thuật và tài chính cho công tác dự phòng và cai nghiện, phục hồi.

Ngày 03/2/2016 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ danh mục các dự án nhóm C hỗ trợ từ ngân sách Trung ương để thực hiện đổi mới công tác cai nghiện (thuộc Chương trình đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020), đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý (Công văn số 2538/VPCP-KGVX ngày 12/4/2016). Đến nay, các dự án đầu tư nâng cấp cơ sở cai nghiện theo dự án nhóm C đối với dự án của 38 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thẩm định để địa phương triển khai thực hiện.

Ngày 28/4/2016, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 04/2016/TT-BLĐTBXH ban hành Khung chương trình đào tạo về tư vấn điều trị nghiện ma túy. Đến nay, nhiều địa phương đã chủ động đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị và chủ động tổ chức tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở. Qua đó, chất lượng hoạt động của các Cơ sở cai nghiện công lập đã được cải thiện.

173. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Ctri tiếp tc đnghbsung Nghđnh s31/2013/NĐ-CP quy đnh htrbo him y tế và các chế đchính sách khác đi vi vhoc chng lit sĩ tái giá như đi vi thân nhân lit sĩ theo quy đnh ca Pháp lnh ưu đãi ngưi có công vi cách mng. Cũng có nơi ctri đnghị nên cân nhắc xem xét li trưng hp này có nên hay không. Nội dung này trái chiều nhau.

Trả lời: Tại công văn số 1299/LĐTBXH-VP  ngày 3/4/2017

Tiếp thu ý kiến của cử tri, dự kiến trong thời gian tới, khi Chính phủ cho phép sửa đổi Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ đề xuất bổ sung chế độ bảo hiểm y tế đối với vợ liệt sĩ tái giá.

2. Cử tri đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương tăng cường các giải pháp phù hợp, rà soát đối với những người được hưởng chế độ thương binh, bệnh binh, chất độc da cam. Thực tế, hiện nay còn xảy ra tình trạng những người bị thật không được hưởng, những người không thuộc đối tượng lại được hưởng gây thất thoát cho Nhà nước và bức xúc trong nhân dân.

Ngày 25/01/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 02/CT-TTg về tăng cường chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các cơ quan liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tiến hành công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công, kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những thiếu sót, khuyết điểm; xử lý nghiêm những việc làm sai trái, tiêu cực trong việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công; kiên quyết đình chỉ việc thụ hưởng chế độ và thu hồi khoản tiền hưởng sai chế độ.

Việc thanh tra, kiểm tra, rà soát hồ sơ người có công với cách mạng là việc làm thường xuyên của ngành Lao động – Thương binh và Xã hội, nhằm đảm bảo tính công bằng, chính xác trong việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Đồng thời, trong công tác chỉ đạo các địa phương, hàng năm Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đều có văn bản hướng dẫn Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về công tác thanh tra, trong đó có nội dung hướng dẫn xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, xử lý kịp thời các sai phạm trong quá trình xác lập hồ sơ và thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng.

3. Theo quy định tại Thông tư 16/2014/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về hướng dẫn một số nội dung xác nhận và thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng thì việc cấp bằng Tổ quốc ghi công đối với liệt sỹ chưa được cấp bằng cần phải có hồ sơ chứng minh thân nhân đã được chế độ ưu đãi. Tuy nhiên, những liệt sỹ chưa được cấp bằng hiện nay phần lớn đều không có hồ sơ lưu trữ, do đó, việc xác định thân nhân đã hưởng các chế độ ưu đãi rất khó khăn. Đề nghị Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội xem xét, sửa đổi lại nội dung trên.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin tiếp thu ý kiến của cử tri và sẽ nghiên cứu bổ sung quy định về vấn đề này trong thời gian tới.

4. Cử tri đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xem xét, có chế độ giải quyết mai táng phí đối với người hoạt động kháng chiến được khen thưởng huân chương, huy chương kháng chiến chưa được giải quyết trợ cấp một lần (kiến trị số 22).

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin ghi nhận, tiếp thu ý kiến của cử tri và sẽ nghiên cứu trong quá trình xây dựng, ban hành chính sách.

5. Cử tri đề nghị có chính sách hỗ trợ cho các đối tượng là người lao động nghỉ việc theo Quyết định số 176-HĐBT ngày 09/10/1989 của Hội đồng Bộ trưởng vì hiện nay, phần lớn những đối tượng này có cuộc sống khó khăn và thiệt thòi so với những đóng góp của họ.

Chế độ, chính sách đối với người lao động được ban hành phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của từng thời kỳ, theo đó chế độ thôi việc hưởng trợ cấp một lần theo Quyết định số 176/HĐBT được ban hành phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của những năm đầu thập niên 1990, đã tháo gỡ một phần khó khăn cho các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình chuyển đổi sang hoạt động theo cơ chế thị trường mà có nhiều lao động không bố trí, sắp xếp được việc làm, đồng thời, tạo điều kiện cho người lao động tìm việc làm mới để nâng cao thu nhập nên được cả doanh nghiệp và người lao động đồng tình thực hiện, dư luận hoan nghênh.

Thời gian qua, một số người lao động nghỉ việc nhận trợ cấp một lần theo Quyết định số 176-HĐBT kiến nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ do cuộc sống hiện tại của họ gặp nhiều khó khăn. Để đảm bảo tính phù hợp của hệ thống chính sách, pháp luật trong từng thời kỳ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã tổng hợp báo cáo với các cơ quan liên quan, trong đó đề nghị đối với những người có hoàn cảnh khó khăn, thu nhập thấp thì xem xét trợ cấp theo quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội.

6. Cử tri cho rằng các tiêu chí để thực hiện chính sách hộ nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều tại các văn bản hướng dẫn thực hiện Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ về chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 với cơ sở là chưa hợp lý, có nhiều tiêu chí xét hộ nghèo chưa đảm bảo như chỉ xét số tài sản như tivi, xe máy mà không xét đến giá trị (hộ có xe máy trị giá vài triệu đồng cũng ngang với hộ có xe 30-40 triệu đồng), số lượng gia súc nuôi hai con cũng tính bằng điểm nuôi cả đàn, tính diện tích nhà ở trên đầu người nhưng không thống kê diện tích đất sản xuất mà hộ dân có … do đó sẽ dẫn đến tính sai, tính sót. Cử tri đề nghị Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, ngành rà soát, điều chỉnh phù hợp. Bên cạnh đó, cần có các giải pháp hữu hiệu hơn để giúp các hộ nghèo thoát nghèo bền vững, xóa bỏ được tâm lý trông chờ, ỷ lại từ sự hỗ trợ của Nhà nước, tạo điều kiện hỗ trợ con em hộ nghèo trong giải quyết việc làm (kiến nghị số 54).

Ngày 28/6/2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 17/2016/TT-BLĐTBXH hướng dẫn về quy trình điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020, theo đó, việc xét duyệt hộ nghèo sẽ dựa trên kết quả chấm điểm tài sản của hộ gia đình (thông qua mẫu phiếu B để tính điểm B1 - ước lượng thu nhập thông qua tài sản, B2 - xác định mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản). Bộ công cụ và quy trình đánh giá được xây dựng để đánh giá về giá trị sử dụng của hộ gia đình (không đánh giá về giá trị tài sản), qua đó xác định mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của các thành viên trong hộ, do đó, không cần thiết phải xác định mức điểm đánh giá theo giá trị của từng loại tài sản. Bên cạnh đó, việc quy định mức cho điểm để đánh giá tài sản, ước lượng mức thu nhập của hộ gia đình do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng dựa trên kết quả thống kê, khảo sát mức sống hộ gia đình của các vùng trên toàn quốc do Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thực hiện; các chỉ tiêu, mức điểm cho từng chỉ tiêu được Tổng cục Thống kê nghiên cứu, xây dựng chặt chẽ, khoa học dựa trên những yếu tố chung nhất của từng vùng, phù hợp với những đặc điểm cơ bản của các hộ gia đình sinh sống trên địa bàn, do đó, về cơ bản các chỉ tiêu, mức điểm đưa ra trong bộ công cụ và quy trình điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 đã phù hợp với đặc điểm chung từng vùng trên cả nước. Tuy nhiên, sẽ vẫn còn có những trường hợp đặc thù, cá biệt mà bộ công cụ và quy trình điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm chưa thể phản ánh đúng thực trạng của hộ gia đình, do đó, cần đến sự tham gia của cán bộ cơ sở (cấp xã và thôn, bản...) và đại diện các hộ gia đình trên địa bàn trong quá trình thống nhất kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm tại cơ sở.

Để đảm bảo phù hợp với việc đánh giá của địa phương, tại Thông tư đã hướng dẫn các địa phương có thể xin ý kiến chỉ đạo thống nhất của Trưởng Ban Chỉ đạo các Chương trình mục tiêu quốc gia cấp tỉnh để điều chỉnh quy định về nhận diện, đánh giá tài sản của các hộ dân trên địa bàn theo các đặc thù của địa phương.

174. Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Cử tri đề nghị nghiên cứu bổ sung đối tượng là con liệt sĩ đã hết tuổi lao động được hưởng chế độ tuất của Liệt sĩ.

Trả lời: Tại công văn số 1365/LĐTBXH-VP  ngày 13/4/2017

Việc xác định đối tượng hưởng tuất trong chính sách ưu đãi người có công phải dựa trên quan hệ nuôi dưỡng (trước đây chính sách ưu đãi người có công còn gọi là “trợ cấp vì mất nguồn nuôi dưỡng”). Tức là, đối với những người mà khi liệt sĩ còn sống có trách nhiệm phải nuôi dưỡng thì khi hy sinh, Nhà nước có trách nhiệm chi trả trợ cấp tiền tuất để đảm bảo cuộc sống cho những đối tượng này, bao gồm: cha, mẹ, vợ (hoặc chồng) và con chưa thành niên (hoặc còn tiếp tục đi học). Quy định như vậy vừa đảm bảo nguyên tắc vừa xác định đối tượng, vừa thống nhất trong chính sách ưu đãi người có công nói riêng và chính sách xã hội nói chung.

Riêng chính sách ưu đãi người có công đã có những ưu tiên hơn so với các chính sách khác, cụ thể là con liệt sĩ đã quá 18 tuổi (không tiếp tục đi học) nhưng nếu bị khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng, không có thu nhập hàng tháng hoặc thu nhập thấp hơn 0,6 lần mức chuẩn thì vẫn được xem xét, giải quyết trợ cấp tiền tuất.

  1. Cử tri cho rằng, thời gian qua các hộ cận nghèo đã được Đảng, Nhà nước quan tâm, có chính sách hỗ trợ tích cực, kịp thời. Tuy nhiên, hiện nay mức hỗ trợ đối với các hộ cận nghèo còn thấp, chưa tạo cú hích để bà con đầu tư sản xuất, thoát nghèo bền vững. Cử tri kiến nghị Chính phủ tiếp tục quan tâm, tăng nguồn vốn vay, tiếp tục nghiên cứu có giải pháp khả thi để hộ nghèo có điều kiện thoát nghèo bền vững (kiến nghị số 49). 

Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã hết sức quan tâm để tạo điều kiện cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi để phát triển sản xuất và thoát nghèo thông qua việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản. Ngày 26/4/2016, Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội đã ban hành Quyết định số 32/QĐ-HĐQT về việc nâng hạn mức cho vay tối đa đối với hộ nghèo và hộ cận nghèo từ 30 triệu đồng/hộ lên 50 triệu đồng/hộ.

Tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện tùy thuộc vào nguồn lực huy động được của Ngân hàng Chính sách xã hội, nhu cầu vốn của hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, chu kỳ sản xuất kinh doanh, Ngân hàng Chính sách xã hội xác định hạn mức cho vay và thời gian vay phù hợp với phương châm huy động tối sự tham gia của người dân và phát huy hiệu quả sử dụng vốn vay. Việc nâng hạn mức cho vay các chương trình tín dụng ưu đãi sẽ căn cứ vào tình hình thực tế, khả năng đáp ứng của ngân sách, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cùng các Bộ, ngành có liên quan sẽ đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét nâng hạn mức cho vay các chương trình.

Đồng thời, nhằm gia tăng nguồn vốn thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi cho các đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ thoát nghèo và các đối tượng chính sách khác, ngày 24/01/2017, Ngân hàng Chính sách xã hội đã ban hành Quyết định số 01/QĐ-HĐQT của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Phương án phát hành trái phiếu Ngân hàng Chính sách xã hội được chính phủ bảo lãnh năm 2017

175. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Đề nghị phải có cơ chế đặc thù, chính sách vùng để giải quyết việc làm cho sinh viên dân tộc thiểu số đã ra trường, nhất là số sinh viên cử tuyển. Vì, nếu tình trạng sinh viên dân tộc thiểu số ra trường không có việc làm sẽ tạo ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội, làm cho thái độ, ý thực học tập của các em học sinh dân tộc thiểu số giảm xuống, không mươn tiếp tục học cao hơn vì cho rằng học xong cũng không xin được việc làm”

Trả lời: Tại công văn số  1283/LĐTBXH-VP  ngày 5/4/2017

Để giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và thanh niên nói riêng, trong đó có thanh niên, sinh viên đã tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng (bao gồm cả sinh viên là con em đồng bào dân tộc thiểu số) đòi hỏi sự tham gia của các ngành, các cấp và trực tiếp là các địa phương, việc đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại địa phương có ý nghĩa quyết định trong việc đẩy mạnh giải quyết việc làm tại chỗ cho thanh niên, sinh viên, góp phần sử dụng nguồn nhân lực trẻ, có chất lượng và đảm bảo an sinh xã hội.

Riêng đối với sinh viên dân tộc thiểu số theo diện cử tuyển, trách nhiệm tiếp nhận, xét tuyển vào vị trí việc làm sau khi tốt nghiệp đã được quy định tại Khoản 2 Điều 11 Văn bản hợp nhất số 03/VBHN-BGDĐT ngày 30/10/2015 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (hợp nhất Nghị định số 134/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ về chế độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và Nghị định số 49/2015/NĐ-CP ngày 15/5/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 134/2006/NĐ-CP), theo đó: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo việc tiếp nhận hồ sơ và xét tuyển hoặc gửi hồ sơ tới các cơ quan, đơn vị dự kiến sử dụng để xét tuyển vào vị trí việc làm theo quy định tại Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức đối với người được cử đi học theo chế độ cử tuyển sau khi tốt nghiệp”.

Trong phạm vị chức năng, nhiệm vụ của mình, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách nhằm hỗ trợ tạo việc làm cho người lao động, nhất là thanh niên như: hoạt động vay vốn tạo việc làm với lãi suất ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm, đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; đẩy mạnh công tác tư vấn, giới thiệu việc làm, dự báo thị trường lao động, kết nối cung - cầu lao động; hỗ trợ đào tạo nghề và tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất; hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho người lao động thất nghiệp...

Thời gian tới, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, xây dựng các chính sách hỗ trợ việc làm cho người lao động, trong đó chủ yếu là thanh niên, đồng thời trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án hỗ trợ thanh niên lập nghiệp, khởi sự doanh nghiệp giai đoạn 2017-2020; tổ chức thực hiện dự án hỗ trợ phát triển thị trường lao động và việc làm trong Chương trình mục tiêu giáo dục nghề nghiệp – việc làm và an toàn lao động giai đoạn 2016-2020 để hỗ trợ thanh niên, trong đó có thanh niên là đồng bào dân tộc thiểu số tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học sớm tìm được việc làm.

176. Cử tri tỉnh kiến nghị: Cử tri phản ánh, tại Điểm a, Khoản 1 Điều 2 Quyết định số 24/2016/QĐ-TTg ngày 14/6/2016 của Thủ tướng chính phủ về trợ cấp một lần đối với người có thành tích tham gia kháng chiến được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, bằng khen của Bộ, thủ trưởng ngang Bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Bằng khen của Chủ tịch UBND cấp tỉnh quy định: “Thân nhân của người có bằng khen từ trần là một trong những người sau: vợ hoặc chồng; bố đẻ, mẹ đẻ; con đẻ, con nuôi của người từ trần” là chưa đủ. Đề nghị bổ sung thêm đối tượng là người thừa kế của người từ trần, vì hiện tại có trường hợp người có bằng khen từ trần nhưng không còn những đối tượng thân nhân nói trên mà chỉ có người thừa kế”,

Trả lời: Tại công văn số 1295/LĐTBXH-VP  ngày 5/4/2017

Tại Điểm a, Khoản 1 Điều 2 Quyết định số 24/2016/QĐ-TTg ngày 14/6/2016 của Thủ tướng chính phủ về trợ cấp một lần đối với người có thành tích tham gia kháng chiến được tặng Bằng khen, quy định “Thân nhân của người có bằng khen từ trần là một trong những người sau: vợ hoặc chồng; bố đẻ, mẹ đẻ; con đẻ, con nuôi của người từ trần”. Việc quy định này là phù hợp để cân bằng với các diện đối tượng người có công khác và thực hiện thống nhất theo quy định về thân nhân người có công với cách mạng tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ.

177. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: đề nghị nghiên cứu, xem xét lại một số điểm trong hệ thống tiêu chí đánh giá, bình xét hộ nghèo, theo đa chiều như hiện nay. Có nhiều điểm đánh giá không được thực tế như: nhà 2,3 tầng cũng bằng điểm với nhà cấp 4; nhà có 4,5 con trâu được tính điểm, nhà bán trâu đi mua máy cày thì không được tính điểm; nhà có con đi học đại học về không có việc làm tính điểm nhiều, nhưng thực tế nuôi con ăn học đã phải vay mượn, nợ nhiều”

Trả lời: Tại công văn số  1281/LĐTBXH-VP  ngày 5/4/2017

Ngày 28/6/2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 17/2016/TT-BLĐTBXH hướng dẫn về quy trình điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020, theo đó, việc xét duyệt hộ nghèo sẽ dựa trên kết quả chấm điểm tài sản của hộ gia đình (thông qua mẫu phiếu B để tính điểm B1 - ước lượng thu nhập thông qua tài sản, B2 - xác định mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản). Bộ công cụ và quy trình đánh giá được xây dựng để đánh giá về giá trị sử dụng của hộ gia đình (không đánh giá về giá trị tài sản), qua đó xác định mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của các thành viên trong hộ, do đó, không cần thiết phải xác định mức điểm đánh giá theo giá trị của từng loại tài sản. Bên cạnh đó, việc quy định mức cho điểm để đánh giá tài sản, ước lượng mức thu nhập của hộ gia đình do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng dựa trên kết quả thống kê, khảo sát mức sống hộ gia đình của các vùng trên toàn quốc do Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thực hiện; các chỉ tiêu, mức điểm cho từng chỉ tiêu được Tổng cục Thống kê nghiên cứu, xây dựng chặt chẽ, khoa học dựa trên những yếu tố chung nhất của từng vùng, phù hợp với những đặc điểm cơ bản của các hộ gia đình sinh sống trên địa bàn, do đó, về cơ bản các chỉ tiêu, mức điểm đưa ra trong bộ công cụ và quy trình điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 đã phù hợp với đặc điểm chung từng vùng trên cả nước. Tuy nhiên, sẽ vẫn còn có những trường hợp đặc thù, cá biệt mà bộ công cụ và quy trình điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm chưa thể phản ánh đúng thực trạng của hộ gia đình, do đó, cần đến sự tham gia của cán bộ cơ sở (cấp xã và thôn, bản...) và đại diện các hộ gia đình trên địa bàn trong quá trình thống nhất kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm tại cơ sở.

Để đảm bảo phù hợp với việc đánh giá của địa phương, tại Thông tư đã hướng dẫn các địa phương có thể xin ý kiến chỉ đạo thống nhất của Trưởng Ban Chỉ đạo các Chương trình mục tiêu quốc gia cấp tỉnh để điều chỉnh quy định về nhận diện, đánh giá tài sản của các hộ dân trên địa bàn theo các đặc thù của địa phương.

178. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị:

1. Cử tri tiếp tục kiến nghị nhà nước sớm giải quyết chế độ chính sách cho người bị địch bắt tù, đày trên địa bàn huyện Tân Biên, đã giải quyết được 40 đối tượng, còn lại hơn 40 đối tượng vẫn chưa được giải quyết, hiện nay các đối tượng này đã tuổi cao sức yếu (kiến nghị số 16).

Trả lời: Tại công văn số 1380/LĐTBXH-VP  ngày 14/4/2017

Đối với việc xác nhận và giải quyết chế độ người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày, cần đảm bảo các giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều 33 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 và Điều 9 Thông tư số 16/2014/TT-BLĐTBXH ngày 30/7/2014 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Trường hợp bị thất lạc hồ sơ lưu trữ và hồ sơ gốc mà cũng không có các giấy tờ khác có cơ sở pháp lý thì hiện nay chưa đủ căn cứ để xác nhận, giải quyết chế độ người bị địch bắt, tù đày.

Đối với các trường hợp tại huyện Tân Biên như cử tri phản ánh, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có văn bản yêu cầu Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Tây Ninh báo cáo thực trạng tình hình hồ sơ, trên cơ sở đó Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ nghiên cứu, xử lý cụ thể kiến nghị và báo cáo với cử tri.

2. Cử tri đề nghị có biện pháp hữu hiệu để giảm thiểu số người sử dụng trái phép các chất ma túy (kiến nghị số 66).

2.1. Về điều chỉnh mô hình cai nghiện và điều chỉnh chế độ cai nghiện

Trước tình trạng số người sử dụng trái phép các chất ma túy ngày càng gia tăng trong khi một số biện pháp cai nghiện áp dụng thời gian qua chưa đạt hiệu quả như mong muốn, ngày 27/12/2013, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2596/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020.

Ngày 26/12/2014, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 98/NQ-CP về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới. Theo đó, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt là: cai nghiện nghiện ma túy là một quá trình lâu dài bao gồm tổng thể các can thiệp hỗ trợ về y tế, tâm lý, xã hội làm thay đổi nhận thức, hành vi nhằm giảm tác hại của nghiện ma túy và giảm tình trạng sử dụng ma túy trái phép; thực hiện đa dạng hóa các biện pháp và mô hình cai nghiện; tăng dần cai nghiện tự nguyện, giảm dần cai nghiện bắt buộc với lộ trình phù hợp, Nhà nước đầu tư nguồn lực và khuyến khích xã hội hóa công tác dự phòng và cai nghiện ma túy.

2.2. Về giải pháp giảm thiểu số người sử dụng trái phép các chất ma túy

Thực hiện Quyết định số 2596/QĐ-TTg và Nghị quyết số 98/NQ-CP, thời gian qua các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung triển khai thực hiện các giải pháp trọng tâm như: Tăng cường thông tin, truyền thông nâng cao nhận thức về nghiện ma túy, dự phòng và cai nghiện trong đó phòng ngừa là giải pháp có tính chất chiến lược; Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dự phòng và điều trị nghiện trên tinh thần của Hiến pháp 2013 (Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật phòng, chống ma túy năm 2000, Luật sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống ma túy năm 2008, Luật xử lý vi phạm hành chính); Đổi mới, nâng cao chất lượng cai nghiện tại các cơ sở cai nghiện, tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước để nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hệ thống các cơ sở cai nghiện để đáp ứng yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ; phát triển công tác tư vấn dự phòng, chăm sóc, hỗ trợ cai nghiện tại cộng đồng, đáp ứng nhu cầu đa dạng về dịch vụ điều trị nghiện; hỗ trợ các đối tượng chính sách để họ có điều kiện tiếp cận với dịch vụ dự phòng và cai nghiện; huy động sự tham gia của cộng đồng, khuyến khích xã hội hóa công tác dự phòng và cai nghiện; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác dự phòng và điều trị nghiện; Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, các tổ chức thuộc chính phủ, phi chính phủ, các nước nhằm tranh thủ sự hỗ trợ về chuyên môn, kỹ thuật và tài chính cho công tác dự phòng và cai nghiện, phục hồi.

2.3. Về đầu tư, tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng hoạt động của các Cơ sở cai nghiện công lập

Ngày 03/2/2016 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ danh mục các dự án nhóm C hỗ trợ từ ngân sách Trung ương để thực hiện đổi mới công tác cai nghiện (thuộc Chương trình đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020), đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý (Công văn số 2538/VPCP-KGVX ngày 12/4/2016).

Đến nay, các dự án đầu tư nâng cấp cơ sở cai nghiện theo dự án nhóm C đối với dự án của 38 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thẩm định để địa phương triển khai thực hiện. Ngày 28/4/2016, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 04/2016/TT-BLĐTBXH ban hành Khung chương trình đào tạo về tư vấn điều trị nghiện ma túy. Đến nay, nhiều địa phương đã chủ động đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị và chủ động tổ chức tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở. Qua đó, chất lượng hoạt động của các Cơ sở cai nghiện công lập đã được cải thiện.

   179. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị: Cử tri đề nghị Chính phủ quan tâm, xem xét tăng chế độ chính sách đối với người có công với cách mạng, những người nghỉ hưu sớm, các đối tượng thương binh, bệnh binh để đảm bảo cuộc sống (kiến nghị số 01).

Trả lời: Tại công văn số  1285/LĐTBXH-VP  ngày 5/4/2017

Chế độ, chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng được xây dựng căn cứ theo mức độ cống hiến, hy sinh của mỗi diện đối tượng, cân đối trong hệ thống chính sách xã hội nói chung và phù hợp với khả năng kinh tế - xã hội của đất nước theo từng giai đoạn.

Thực hiện đề án cải cách chế độ trợ cấp ưu đãi đối với người có công, mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công với cách mạng đã được điều chỉnh tăng hàng năm, mức chuẩn trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng luôn ở mức cao nhất trong các chính sách xã hội, cân đối với việc nâng lương và trợ cấp bảo hiểm xã hội. Thực tế hiện nay, mức chuẩn trợ cấp người có công là 1.318.000 đồng đã được thực hiện từ ngày 01/01/2015, trong khi từ ngày 01/5/2016 (hơn 01 năm sau), mức lương cơ sở áp dụng cho cán bộ, công chức mới được điều chỉnh tăng lên 1.210.000 đồng.

Đối với những người nghỉ hưu sớm: theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội “mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính dựa trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội”, mức lương hưu hàng tháng của người lao động được tính trên cơ sở thời gian đóng bảo hiểm xã hội và mức tiền lương làm căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội. Như vậy, mức lương hưu của người nghỉ hưu cao hay thấp phụ thuộc vào thời gian đóng, mức tiền lương của người lao động khi còn làm việc.

Giai đoạn 2003-2007, Chính phủ đã 5 lần điều chỉnh lương hưu với mức tăng từ 164,8% đến 228,8% (tùy thuộc vào mức lương khi nghỉ hưu và thời điểm nghỉ hưu) so với mức lương hưu của tháng 12/2002. Giai đoạn từ năm 2008 đến nay, Chính phủ cũng đã 08 lần điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng với mức tăng thêm 168,5% so với cuối năm 2007.

  1. Cử tri cho rằng việc tăng lương hưu bình quân theo tỷ lệ phần trăm cho tất cả những người về hưu là không hợp lý vì những người lương hưu thấp sẽ càng thấp hơn so với những người lương cao. Đề nghị Nhà nước nghiên cứu có chính sách tăng lương hưu hợp lý hơn (kiến nghị số 35).

   Một trong những nguyên tắc bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội là “mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội”, mức lương hưu hàng tháng của người lao động được tính trên cơ sở thời gian đóng bảo hiểm xã hội và mức tiền lương làm căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội. Như vậy, mức lương hưu của người nghỉ hưu cao hay thấp sẽ phụ thuộc vào thời gian đóng, mức tiền lương của người lao động khi còn làm việc.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới đời sống của những người nghỉ hưu. Trong giai đoạn 2003 - 2007, Chính phủ đã 05 lần điều chỉnh lương hưu với mức tăng từ 164,8% đến 228,8% (tuỳ thuộc vào mức lương khi nghỉ hưu và thời điểm nghỉ hưu) so với mức lương hưu của tháng 12 năm 2002, trong đó người nghỉ hưu trước tháng 9 năm 1985 và trước tháng 4 năm 1993 được điều chỉnh với tỷ lệ cao hơn những người nghỉ hưu ở giai đoạn từ tháng 4 năm 1993 trở về sau. Trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay, Chính phủ cũng đã 08 lần điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng với mức tăng thêm 168,5% so với cuối năm 2007.

Thông qua việc thực hiện điều chỉnh lương hưu nêu trên, đời sống của người nghỉ hưu từng bước được cải thiện và Chính phủ cũng đã thực hiện các biện pháp nhằm giảm bớt chênh lệch lương hưu của người nghỉ hưu giữa các thời kỳ. Tuy nhiên, do chính sách bảo hiểm xã hội được thực hiện theo nguyên tắc đóng- hưởng, tiền lương của người lao động ở thời kỳ sau luôn có xu hướng được cải thiện hơn so với thời kỳ trước và do đó khi nghỉ hưu cũng thường có mức lương hưu cao hơn, việc điều chỉnh lương hưu nhằm đảm bảo sự tương quan về mức lương hưu giữa các thời kỳ nhưng cũng chưa xử lý triệt để được.

Riêng đối với những người nghỉ hưu có mức lương hưu thấp, ngày 11/11/2015, trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 99/2015/QH13 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016, theo đó “Từ ngày 01/01/2016, thực hiện điều chỉnh tiền lương đối với người có mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động dưới 2.000.000 đồng/tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian công tác trước năm 1995 để lương hưu của các đối tượng này đạt mức lương cơ sở...”

Triển khai Nghị quyết số 99/2015/QH13 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2016/NĐ-CP ngày 15/6/2016 điều chỉnh mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian làm việc trước năm 1995; ngày 15/7/2016, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 23/2016/TT-BLĐTBXH hướng dẫn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng. Theo đó từ ngày 01/01/2016, tăng thêm 250.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng lương hưu có mức lương hưu dưới 2 triệu đồng/tháng và tăng thêm 150.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng với mức trợ cấp dưới 2 triệu đồng/tháng.

Trên cơ sở kết quả thực hiện việc điều chỉnh lương hưu, trợ cấp nêu trên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành để rà soát, đánh giá và đề xuất các phương án điều chỉnh lương hưu cho các giai đoạn tiếp theo.

180. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP. Tuy nhiên, theo quy định tại các Nghị định này thì quy trình xác định đối tượng nghiện ma túy rất phức tạp, qua nhiều bước thẩm định. Đề nghị Chính phủ tiếp tục sửa đổi Nghị định theo hướng rút gọn, góp phần quản lý chặt chẽ các đối tượng nghiện ma túy”

Trả lời: Tại công văn số 1385/LĐTBXH-VP  ngày 13/4/2017

Trước tình trạng số người sử dụng trái phép các chất ma túy ngày càng gia tăng trong khi một số biện pháp cai nghiện áp dụng thời gian qua chưa đạt hiệu quả như mong muốn, ngày 27/12/2013, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2596/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020.

Ngày 26/12/2014, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 98/NQ-CP về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới. Theo đó, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt là: cai nghiện nghiện ma túy là một quá trình lâu dài bao gồm tổng thể các can thiệp hỗ trợ về y tế, tâm lý, xã hội làm thay đổi nhận thức, hành vi nhằm giảm tác hại của nghiện ma túy và giảm tình trạng sử dụng ma túy trái phép; thực hiện đa dạng hóa các biện pháp và mô hình cai nghiện; tăng dần cai nghiện tự nguyện, giảm dần cai nghiện bắt buộc với lộ trình phù hợp, Nhà nước đầu tư nguồn lực và khuyến khích xã hội hóa công tác dự phòng và cai nghiện ma túy.

Thực hiện Quyết định số 2596/QĐ-TTg và Nghị quyết số 98/NQ-CP, thời gian qua các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung triển khai thực hiện các giải pháp trọng tâm như: Tăng cường thông tin, truyền thông nâng cao nhận thức về nghiện ma túy, dự phòng và cai nghiện trong đó phòng ngừa là giải pháp có tính chất chiến lược; Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dự phòng và điều trị nghiện trên tinh thần của Hiến pháp 2013 (Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật phòng, chống ma túy năm 2000, Luật sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống ma túy năm 2008, Luật xử lý vi phạm hành chính); Đổi mới, nâng cao chất lượng cai nghiện tại các cơ sở cai nghiện, tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước để nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hệ thống các cơ sở cai nghiện để đáp ứng yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ; phát triển công tác tư vấn dự phòng, chăm sóc, hỗ trợ cai nghiện tại cộng đồng, đáp ứng nhu cầu đa dạng về dịch vụ điều trị nghiện; hỗ trợ các đối tượng chính sách để họ có điều kiện tiếp cận với dịch vụ dự phòng và cai nghiện; huy động sự tham gia của cộng đồng, khuyến khích xã hội hóa công tác dự phòng và cai nghiện; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác dự phòng và điều trị nghiện; Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, các tổ chức thuộc chính phủ, phi chính phủ, các nước nhằm tranh thủ sự hỗ trợ về chuyên môn, kỹ thuật và tài chính cho công tác dự phòng và cai nghiện, phục hồi.

Ngày 03/2/2016 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ danh mục các dự án nhóm C hỗ trợ từ ngân sách Trung ương để thực hiện đổi mới công tác cai nghiện (thuộc Chương trình đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020), đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý (Công văn số 2538/VPCP-KGVX ngày 12/4/2016).

Đến nay, các dự án đầu tư nâng cấp cơ sở cai nghiện theo dự án nhóm C đối với dự án của 38 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thẩm định để địa phương triển khai thực hiện. Ngày 28/4/2016, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 04/2016/TT-BLĐTBXH ban hành Khung chương trình đào tạo về tư vấn điều trị nghiện ma túy. Đến nay, nhiều địa phương đã chủ động đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị và chủ động tổ chức tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở. Qua đó, chất lượng hoạt động của các Cơ sở cai nghiện công lập đã được cải thiện.

   181. Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị: Thực hiện Quyết định số 40/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, việc chi trả cho thanh niên xung phong hoàn thành nhiệm vụ về địa phương như hiện nay là 2,5 triệu/người là chưa phù hợp, như vậy Nhà nước mới trả thời gian là 2 năm, mà thanh niên xung phong một nhiệm kỳ là 3 năm.

Trả lời: Tại công văn số  1336/LĐTBXH-VP  ngày 11/4/2017

Tại Khoản 1 Điều 2 Quyết định số 40/2011/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ quy định thanh niên xung phong có thời gian trực tiếp tham gia kháng chiến từ đủ 2 năm trở xuống, mức hưởng trợ cấp một lần bằng 2.500.000 đồng. Quy định về thời gian như vậy là tương ứng với quy định về thời gian phục vụ của quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước dưới 20 năm theo Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg và đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, giúp bạn Lào sau ngày 30/4/1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg.

Trường hợp thanh niên xung phong tham gia phục vụ trên 02 năm thì từ năm thứ 3 trở đi cứ mỗi năm được cộng thêm 800.000 đồng. Như vậy đối với thanh niên xung phong tham gia một nhiệm kỳ 03 năm được hưởng mức trợ cấp một lần là 3.300.000 đồng.

1. Đề nghị cần sớm có hướng dẫn về giải quyết chế độ đối với người có công với cách mạng không còn giấy tờ, chứng cứ để những đối tượng này sớm được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nướ.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xác định việc giải quyết hồ sơ tồn đọng là vấn đề cần phải làm ngay, làm quyết liệt, song giải quyết hồ sơ tồn đọng là vấn đề phức tạp, vì nhân chứng hầu như không còn, hồ sơ thất lạc, không có giấy tờ, căn cứ chứng minh. Để giải quyết các hồ sơ còn tồn đọng, trước hết cần phải phân loại để xử lý như sau: Hồ sơ không có cơ sở gì theo quy định; Đối tượng kê khai thiếu thì đề nghị bổ sung; Trường hợp kê khai chưa giải quyết do thay đổi chính sách chưa xử lý kịp thì hướng dẫn thực hiện theo quy định mới; Với những trường hợp khác đưa vào theo quy trình bình thường; Những trường hợp có tính cá biệt phải xem xét xử lý theo quy trình cụ thể, chi tiết.

Mặt khác, nếu năm 2017 triển khai đồng bộ tất cả các loại đối tượng thì chưa có tính khả thi.

Vì vậy sau khi nghiên cứu, khảo sát kỹ và tiến hành thí điểm tại một số tỉnh, thành phố, Bộ đã chọn năm 2017 tập trung giải quyết căn bản hồ sơ tồn đọng xác nhận liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh đang lưu trữ tại Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ chỉ huy quân sự và Công an tỉnh, thành phố trở lên (số này theo thống kê còn khoảng 5.900 hồ sơ).

Ngay sau khi có kết quả tại 09 tỉnh, thành phố triển khai trong đợt thí điểm, Ban Chỉ đạo cấp tỉnh và Tổ công tác Trung ương đã thống nhất đề nghị xác nhận 86 trường hợp người có công với cách mạng, bao gồm: 75 liệt sĩ (trong đó có 57 liệt sĩ thời kỳ chống Pháp, 18 liệt sĩ thời kỳ chống Mỹ) và 11 thương binh, người hưởng chính sách như thương binh thời kỳ chống Mỹ.

Tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 02/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 07/3/2017, trong đó giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các địa phương tiếp tục thực hiện tốt chính sách đối với người có công... giải quyết các hồ sơ xác nhận liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh còn tồn đọng tại các địa phương theo trình tự, thủ tục, hồ sơ cụ thể do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành, bảo đảm công khai, minh bạch, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng chính sách để trục lợi.

Thực hiện Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ, ngày 20/3/2017, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Quyết định số 408/QĐ-LĐTBXH về quy trình giải quyết hồ sơ người có công tồn đọng với mục tiêu hết năm 2017 giải quyết căn bản hồ sơ tồn đọng xác nhận liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh đang lưu trữ tại Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố và Công an tỉnh, thành phố trở lên.

2. Theo quy định tại Nghị định số 20/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015, mức trợ cấp đối với người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày chỉ bằng 0,6 lần mức chuẩn trợ cấp đối với người có công, đề nghị nâng lên bằng mức chuẩn và bổ sung chế độ bảo hiểm y tế cho vợ của đối tượng này.

Chế độ, chính sách ưu đãi người có công với cách mạng được xây dựng căn cứ theo mức độ cống hiến, hy sinh của mỗi diện đối tượng, cân đối trong hệ thống chính sách xã hội nói chung và phù hợp với khả năng kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn.

Trong điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước như hiện nay, quy định về chế độ ưu đãi đối với người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày là phù hợp và công bằng với các đối tượng khác.

3. Theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp (Khoản 2 Điều 40; Khoản 3 Điều 44; Điều 6 Thông tư 43/2015/TT-BLĐTBXH) thì việc cấp văn bằng, chứng chỉ trong đào tạo nghề thường xuyên được giao cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chủ động. Như vậy, việc quản lý về đào tạo và cấp chứng chỉ trong đào tạo thường xuyên (từ 01 đến dưới 03 tháng) là chưa chặt chẽ, đề nghị nên giao cho cơ quan quản lý giáo dục nghề nghiệp cấp tỉnh chịu trách nhiệm kiểm tra, hướng dẫn thực hiện.

Để quản lý việc tổ chức đào tạo thường xuyên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 43/2015/TT-BLĐTBXH ngày 20/10/2015 quy định về  đào tạo thường xuyên. Tại Điều 17 đã quy định rõ trách nhiệm của các cơ sở tham gia đào tạo thường xuyên và phân cấp quản lý cho cơ quan quản lý về giáo dục nghề nghiệp ở địa phương, cụ thể: “Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tổ chức lớp đào tạo nghề và các cơ quan, tổ chức liên quan trên địa bàn thực hiện các chương trình đào tạo thường xuyên theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp và Thông tư này; chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, tổng hợp báo cáo việc quy định về đào tạo thường xuyên trên địa bàn theo quy định”.

Như vậy, việc kiểm tra, hướng dẫn thực hiện về đào tạo thường xuyên trên địa bàn tỉnh đã được phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn, căn cứ Luật Giáo dục nghề nghiệp và các văn bản hướng dẫn có trách nhiệm kiểm tra, hướng dẫn cơ sở đào tạo thực hiện theo đúng quy định, trong đó có kiểm tra, giám sát, hướng dẫn thực hiện đối với đào tạo thường xuyên.

4. Tại Khoản 2, Điều 33 của Luật Giáo dục nghề nghiệp quy định: “Thời gian đào tạo trình độ trung cấp theo niên chế đối với người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên là từ 01 đến 02 năm học tùy theo chuyên ngành hoặc nghề đào tạo”. Học sinh trung học cơ sở mới 15-16 tuổi, khi đăng ký học nghề trình độ trung cấp, với thời gian đào tạo từ 01 đến 02 năm theo luật định thì khi tốt nghiệp trường nghề, đối tượng này mới 16-17 tuổi, nhiều em chưa đủ 18 tuổi. Mặc dù, Khoản 1, Điều 18 Bộ luật Lao động đã quy định “Trong trường hợp người lao động từ đủ 15 đến 18 tuổi, thì việc ký kết hợp đồng lao động phải được sự đồng ý của đại diện theo pháp luật của người lao động” nhưng không doanh nghiệp nào dám ký hợp đồng lao động với các em này vì cần có người đại diện. Đây là khó khăn đối với các doanh nghiệp và với các em học sinh học nghề sau trung học cơ sở. Đề nghị xem xét, sửa đổi các quy định của pháp luật cho phù hợp với định hướng phân luồng học sinh theo chỉ thị 10-CT/TW ngày 05/12/2011 của Bộ Chính trị .

Quy định thời gian học trình độ trung cấp đối với người tốt nghiệp trung học cơ sở là từ 1 - 2 năm tùy theo nghề đào tạo, không phải bắt buộc học phần văn hóa trung học phổ thông theo Luật Giáo dục nghề nghiệp hiện nay là phù hợp nhằm thu hút đối tượng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học nghề, tạo điều kiện cho người học có khả năng tìm việc làm, sớm tham gia thị trường lao động. Nếu người học có nguyện vọng tiếp tục học lên trình độ cao hơn thì phải học và thi đạt yêu cầu đủ khối lượng văn hóa trung học phổ thông.

Theo quy định của Bộ luật Lao động (Khoản 1 Điều 3) thì “Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động” và “Người học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động từ 14 tuổi trở lên đã đủ tuổi học nghề” (khoản 1 Điều 61).

Để hành nghề, để tham gia thị trường lao động thì người lao động phải đáp ứng điều kiện theo quy định của Bộ luật lao động. Tuy nhiên, đối với các em là lao động chưa thành niên thì sẽ bị giới hạn ở một số lĩnh vực, ngành nghề nhưng cũng chỉ là trong các lĩnh vực nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm… chứ không phải ở tất cả các ngành nghề.

182. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Cử tri kiến nghị Bộ xem xét, nghiên cứu, tham mưu với Chính phủ ban hành quy định về thực hiện trợ cấp mất sức lao động cho con liệt sĩ trên 60 tuổi nhưng không được hưởng trợ cấp gì khác nhằm tạo nguồn thu nhập để họ ổn định cuộc sống góp phần tiếp tục thực hiện công tác đền ơn đáp nghĩa đối với những người đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc (kiến nghị số 28).

Trả lời: Tại công văn số 1377/LĐTBXH-VP  ngày 14/4/2017

Việc xác định đối tượng hưởng tuất trong chính sách ưu đãi người có công phải dựa trên quan hệ nuôi dưỡng (Vì vậy, trước đây chính sách ưu đãi người có công còn gọi là “trợ cấp vì mất nguồn nuôi dưỡng”). Tức là đối với những người mà khi liệt sĩ còn sống có trách nhiệm phải nuôi dưỡng thì khi hy sinh, Nhà nước có trách nhiệm chi trả trợ cấp tiền tuất để đảm bảo cuộc sống cho những đối tượng này, bao gồm: cha, mẹ, vợ (hoặc chồng) và con chưa thành niên (hoặc còn tiếp tục đi học). Quy định như vậy vừa đảm bảo nguyên tắc xác định đối tượng vừa thống nhất trong chính sách ưu đãi người có công nói riêng và chính sách xã hội nói chung (tuất Lão thành cách mạng, Cán bộ tiền khởi nghĩa, thương binh, tuât bảo hiểm xã hội).

Riêng, chính sách ưu đãi người có công đã có những ưu tiên hơn so với các chính sách khác, cụ thể là con liệt sĩ đã quá 18 tuổi (không tiếp tục đi học) nhưng nếu bị khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng, không có thu nhập hàng tháng hoặc thu nhập thấp hơn 0,6 lần mức chuẩn thì vẫn được xem xét, giải quyết trợ cấp tiền tuất.

Vì vậy, không có cơ sở để tiếp tục giải quyết trợ cấp tiền tuất cho toàn bộ con liệt sĩ nói riêng và con người có công với cách mạng nói chung khi đã đến tuổi trưởng thành (trong đó bao gồm cả những trường hợp đã hết tuổi lao động).

Cử tri đề nghị hạ độ tuổi trợ cấp của người cao tuổi xuống còn 75 tuổi và tăng mức trợ cấp hàng tháng để động viên người cao tuổi; đồng thời tăng mức trợ cấp cho người cao tuổi và người tàn tật

Đề nghị nghiên cứu, sửa Luật Người cao tuổi theo hướng cho tất cả những người đến 80 tuổi được hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng, không phân biệt cán bộ hưu trí với các đối tượng khác, nhằm đảm bảo sự công bằng trong thụ hưởng các chính sách bảo trợ xã hội của Nhà nước cho cùng một đối tượng; đồng thời xem xét giảm độ tuổi được hưởng chính sách này từ 80 tuổi xuống còn 75 tuổi, do hiện nay ở nông thôn vào độ tuổi này sức khỏe các cụ đã giảm nhiều; Bởi, theo ý kiến của các cụ, đây là chính sách của Đảng và Nhà nước đã động viên rất lớn đến tinh thần, giúp các cụ phấn đấu đẻ sống vui, sống khỏe.

- Về kiến nghị cho tất cả những người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng và đề nghị hạ độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội xuống 75 tuổi:

Tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ tổng hợp, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định khi sửa Luật Người cao tuổi.

- Về kiến nghị nâng mức trợ xấp xã hội đối với người cao tuổi, người tàn tật:

Trong thời gian qua, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã nhiều lần trình Chính phủ ban hành văn bản mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội, điều chỉnh tăng mức trợ cấp, mức trợ giúp đột xuất cho các đối tượng bảo trợ xã hội trong đó có người cao tuổi, trẻ em khuyết tật, người khuyết tật, trẻ em mồ côi. Gần đây nhất, Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 nâng mức trợ cấp xã hội, trọng đó nâng cao mức chuẩn trợ cấp xã hội từ 180.000 đồng lên 270.000 đồng. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể đối tượng được hưởng hệ số khác nhau, hệ số 1 nếu không khó khăn, hệ số 2-4 nếu đối tượng có hoàn cảnh khó khăn khác nhau. Việc nâng mức chuẩn trợ cấp cho các đối tượng lên đồng loạt 270.000 đồng/người/tháng và thực hiện đầy đủ các chính sách quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP trong bối cảnh khó khăn về ngân sách là sự cố gắng lớn của Chính phủ. Vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin nghiên cứu ý kiến này để trình cơ quan có thẩm quyền vào thời gian thích hợp.

Cử tri kiến nghị Bộ sớm tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo giai đoạn 2016-2020 theo các tiêu chí được quy định Quyết định số 1559/QĐ-TTg ngày 5/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành tiêu chí xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo giai đoạn 2016-2020 nhằm tạo điều kiện cho các địa phương sớm thụ hưởng các chính sách ưu tiên hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu của Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, thực hiện các chính sách an sinh xã hội và chính sách giảm nghèo, góp phần giảm nghèo bền vững. Bởi, Quyết định số 539/QĐ-TTg ngày 01/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Danh sách các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo giai đoạn 2013-2015 đến nay đã hết hiệu lực thi hành nhưng chưa có văn bản thay thế.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 25/01/2017 về việc ban hành Danh sách các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo giai đoạn 2016-2020. Đề nghị các địa phương tiến hành tổ chức thực hiện Quyết định số 131/QĐ-TTg trên địa bàn một cách kịp thời, đúng đối tượng thụ hưởng các chính sách liên quan.

Cử tri là lực lượng vũ trang Trung đoàn 271 phản ánh tình trạng học viên trốn khỏi trung tâm cai nghiện trong thời gian qua đã gây hoang mang dư luận. Cử tri đề nghị các ngành chức năng cần có chính sách phù hợp đối với người cai nghiện, quan tâm giáo dục, tuyên truyền cho các đối tượng này, đồng thời nâng cao chất lượng cơ sở vật chất tại các trung tâm cai nghiện, tăng cường công tác quản lý để tránh xảy ra tình trạng trên.

Trước tình trạng số người sử dụng trái phép các chất ma túy ngày càng gia tăng trong khi một số biện pháp cai nghiện áp dụng thời gian qua chưa đạt hiệu quả như mong muốn, ngày 27/12/2013 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2596/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020, ngày 26/12/2014 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 98/NQ-CP về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới. Theo đó, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt là: cai nghiện nghiện ma túy là một quá trình lâu dài bao gồm tổng thể các can thiệp hỗ trợ về y tế, tâm lý, xã hội làm thay đổi nhận thức, hành vi nhằm giảm tác hại của nghiện ma túy và giảm tình trạng sử dụng ma túy trái phép; thực hiện đa dạng hóa các biện pháp và mô hình cai nghiện; tăng dần cai nghiện tự nguyện, giảm dần cai nghiện bắt buộc với lộ trình phù hợp; Nhà nước đầu tư nguồn lực và khuyến khích xã hội hóa công tác dự phòng và cai nghiện ma túy.

Thực hiện Quyết định số 2596/QĐ-TTg và Nghị quyết số 98/NQ-CP, thời gian qua các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung triền khai thực hiện các giải pháp trọng tâm như: Tăng cường thông tin, truyền thông nâng cao nhận thức về nghiện ma túy, dự phòng và cai nghiện trong đó phòng ngừa là giải pháp có tính chất chiến lược; Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dự phòng và điều trị nghiện trên tinh thần của Hiến pháp 2013 (Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật phòng, chống ma túy năm 2000, Luật sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống ma túy năm 2008, Luật xử lý vi phạm hành chính); Đổi mới, nâng cao chất lượng cai nghiện tại các cơ sở cai nghiện, tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước để nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hệ thống các cơ sở cai nghiện để đáp ứng yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ; phát triển công tác vấn dự phòng, chăm sóc, hỗ trợ cai nghiện tại cộng đồng, đáp ứng nhu cầu đa dạng về dịch vụ điều trị nghiện; hỗ trợ các đối tượng chính sách để họ có điều kiện tiếp cận với dịch vụ dự phòng và cai nghiện; huy động sự tham gia của cộng đồng, khuyến khích xã hội hóa công tác dự phòng và cai nghiện; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác dự phòng và điều trị nghiện; Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, các tổ chức thuộc chính phủ, phi chính phủ, các nước nhằm tranh thủ sự hỗ trợ về chuyên môn, kỹ thuật và tài chính cho công tác dự phòng và cai nghiện, phục hồi.

Ngày 03/2/2016 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ danh mục các dự án nhóm C hỗ trợ từ ngân sách Trung ương để thực hiện đổi mới công tác cai nghiện (thuộc Chương trình đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020), đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý (Công văn số 2538/VPCP-KGVX ngày 12/4/2016). Đến nay, các dự án đầu tư nâng cấp cơ sở cai nghiện theo dự án nhóm C đối với dự án của 38 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thẩm định để địa phương triển khai thực hiện.

Ngày 28/4/2016, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 04/2016/TT-BLĐTBXH ban hành Khung chương trình đào tạo về tư vấn điều trị nghiện ma túy. Đến nay, nhiều địa phương đã chủ động đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị và chủ động tổ chức tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở. Qua đó, chất lượng hoạt động của các Cơ sở cai nghiện công lập đã được cải thiện.

183. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: 1. Cử tri đề nghị hạ độ tuổi trợ cấp của người cao tuổi xuống còn 75 tuổi và tăng mức trợ cấp hàng tháng để động viên người cao tuổi; đồng thời tăng mức trợ cấp cho người cao tuổi và người tàn tật.

Trả lời: Tại công văn số 1268/LĐTBXH-VP  ngày 6/4/2017

- Về kiến nghị hạ độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội của người cao tuổi xuống còn 75 tuổi:

Tiếp thu ý kiến kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ tổng hợp, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định khi sửa Luật Người cao tuổi.

- Về kiến nghị nâng mức trợ xấp xã hội đối với người cao tuổi, người tàn tật:

Trong thời gian qua, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã nhiều lần trình Chính phủ ban hành văn bản mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội, điều chỉnh tăng mức trợ cấp, mức trợ giúp đột xuất cho các đối tượng bảo trợ xã hội trong đó có người cao tuổi, trẻ em khuyết tật, người khuyết tật, trẻ em mồ côi. Gần đây nhất, Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 nâng mức trợ cấp xã hội, trọng đó nâng cao mức chuẩn trợ cấp xã hội từ 180.000 đồng lên 270.000 đồng. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể đối tượng được hưởng hệ số khác nhau, hệ số 1 nếu không khó khăn, hệ số 2-4 nếu đối tượng có hoàn cảnh khó khăn khác nhau. Việc nâng mức chuẩn trợ cấp cho các đối tượng lên đồng loạt 270.000 đồng/người/tháng và thực hiện đầy đủ các chính sách quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP trong bối cảnh khó khăn về ngân sách là sự cố gắng lớn của Chính phủ. Vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin nghiên cứu ý kiến này để trình cơ quan có thẩm quyền vào thời gian thích hợp.

2. Cử tri đề nghị xem xét lại chính sách hỗ trợ đối với tất cả các hộ gia đình tại địa bàn được công nhận đặc biệt khó khăn lại có những hộ gia đình khá và giàu vẫn được hỗ trợ chế độ, chính sách, trong khi đó hộ gia đình thực sự nghèo ở địa phương khác thì không được hưởng chính sách như vậy thì không công bằng. Đồng thời đề nghị nâng mức hỗ trợ cho hộ cận nghèo.

Thực hiện Quyết định số 2324/QĐ-TTg ngày 19/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động triển khai Nghị quyết số 76/2014/QH13 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, Bộ Lao động  - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tiến hành rà soát, tích hợp, sửa đổi chính sách giảm nghèo theo hướng hệ thống hơn, giảm đầu mối văn bản, tập trung, hiệu quả, khắc phục tình trạng đầu tư, hỗ trợ dàn trải, hạn chế các chính sách hỗ trợ cho không, tăng chính sách hỗ trợ có điều kiện, có hoàn trả, mở rộng chính sách hỗ trợ đối với hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo (Báo cáo số 438/BC-CP ngày 17 tháng  10  năm 2016 của Chính phủ gửi Quốc hội).

Hiện nay, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang tích cực phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh việc rà soát, tích hợp, sửa đổi chính sách giảm nghèo, sắp xếp, điều chỉnh theo hướng tập trung chính sách, nguồn lực, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp; đề xuất bãi bỏ những chính sách có mức hỗ trợ nhỏ lẻ, hiệu quả thấp, không còn phù hợp với thực tiễn; đề xuất các giải pháp thực hiện chính sách, Chương trình giảm nghèo giai đoạn 2016-2020 đạt hiệu quả tốt hơn.

184. Cử tri tỉnh Tuyên Quang kiến nghị: “đề nghị có chính sách đối với con của người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc da cam khi giám định sức khỏe bị ảnh hưởng từ 41% đến 60% thì được hưởng chế độ của Nhà nước”

Trả lời: Tại công văn số  1294/LĐTBXH-VP  ngày 5/4/2017

Chế độ ưu đãi đối với người có công với cách mạng và thân nhân của họ được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước theo từng thời kỳ. Tại Điều 45 của Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ quy định trợ cấp hàng tháng và một số chế độ ưu đãi khác đối với con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học bị dị dạng, dị tật bẩm sinh có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.

Riêng một số chế độ như: ưu đãi trong giáo dục đào tạo, tuyển sinh, tạo việc làm đối với con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học không giới hạn về tỷ lệ suy giảm khả năng lao động.

185. Cử tri tỉnh Vĩnh Phúc kiến nghị: Đề nghị xem xét, bổ sung quy định danh hiệu vinh dự Bà mẹ Việt Nam anh hùng đối với người có 02 con, trong đó con trai hy sinh và con gái đi lấy chồng được phong tặng hoặc truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”

Trả lời: Tại công văn số 1284/LĐTBXH-VP  ngày  5/4/2017

Pháp lệnh số 05/2012/UBTVQH13 ngày 20/10/2012 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22/5/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, trong đó đã quy định và hướng dẫn về đối tượng, chế độ, hồ sơ, trình tự, thủ tục đề nghị tặng hoặc truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội xin tiếp thu kiến nghị của cử tri để đề nghị Bộ Quốc phòng xem xét, đề xuất trình Chính phủ, trình Quốc hội theo thẩm quyền.

186. Cử tri thành phố Đã Nẵng kiến nghị: Cử tri đề nghị rà soát lại đối tượng là lực lượng thanh niên xung phong qua các thời kỳ để giải quyết chính sách cho phù hợp, nhằm kịp thời động viên, an ủi cuộc sống khó khăn của họ hiện nay, chí ít cũng có chế độ bảo hiểm y tế để họ có điều kiện khám, chữa bệnh. Tại thành phố Đà Nẵng, sau năm 1978 có cử 02 đoàn viên thanh niên xung phong đi làm nhiệm vụ, hiện nay vẫn chưa được hưởng chế độ gì.

Trả lời: Tại công văn số  1351/LĐTBXH-VP  ngày 12/4/2017

Hiện nay chính sách đối với thanh niên xung phong thuộc phạm vi trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ. Thời gian qua, trong phạm vi trách nhiệm của mình, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã cùng các cơ quan, tổ chức có liên quan báo cáo Thủ tướng Chính phủ về chủ trương xử lý, bổ sung đối tượng hưởng chế độ thanh niên xung phong quy định tại Quyết định số 40/2011/QĐ-TTg.

Cụ thể: ngày 05/7/2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 29/QĐ-TTg về điều chỉnh chế độ trợ cấp đối với thanh niên xung phong đang hưởng trợ cấp theo quy định tại Quyết định số 40/2011/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Tiếp đó, ngày 31/8/2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có văn bản gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị đẩy nhanh tiến độ xem xét, giải quyết chế độ bảo hiểm y tế, mai táng phí, điều chỉnh trợ cấp đối với đối tượng hưởng trợ cấp hàng tháng, chế độ trợ cấp đối với thanh niên xung phong theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ.

Ngày 30/11/2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có văn bản thống nhất với ý kiến của Hội cựu Thanh niên xung phong Việt Nam về việc đề nghị tặng thưởng Huy chương cho thanh niên xung phong hoàn thành nhiệm vụ các thời kỳ kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hiện nay, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang cùng Hội cựu thanh niên xung phong chỉ đạo rà soát, đánh giá chính xác tình hình số liệu cựu thanh niên xung phong và những vấn đề liên quan đến chính sách thanh niên xung phong để tham mưu trình Chính phủ xem xét, quyết định.

  1. Cử tri phản ánh Nhà nước ta đã có những chính sách ưu tiên đối với những người có công với cách mạng, người khuyết tật, người già, trẻ em… tại các khu vực công cộng như sân bay, bến cảng, nhà ga, nhà xe, bệnh viện… Tuy nhiên, thời gian qua chính sách này ít được quan tâm thực hiện. Cử tri đề nghị Chính phủ cần quan tâm chỉ đạo thực hiện đúng chính sách nhân văn trên (kiến nghị số 14).

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội xin tiếp thu kiến nghị của cử tri để đề nghị Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện và kiểm tra, giám sát theo thẩm quyền.

187. Cử tri thành phố Hà Nội  kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị nghiên cứu lộ trình cụ thể về việc nâng độ tuổi nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức, viên chức và những người trong diện kéo dài tuổi nghỉ hưu thì không được giữ chức vụ quản lý”

Trả lời: Tại công văn số   1264/LĐTBXH-VP  ngày   4/4/2017

Thực hiện Nghị quyết số 22/2016/QH14 ngày 29/7/2016 của Quốc hội về việc điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017 và phân công của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 1840/QĐ-TTg ngày 23/9/2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được giao chủ trì soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động. 

Trong quá trình đánh giá tổng kết tình hình 03 năm thực hiện Bộ luật Lao động để làm cơ sở cho việc đề xuất sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động đã có những ý kiến đề nghị cần thiết phải xem xét điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu để tận dụng nguồn nhân lực có trình độ, có kinh nghiệm. Hiện nay, Ban soạn thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) đang tiếp tục nghiên cứu, đề xuất các phương án điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu, đánh giá tác động của việc điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu tới vấn đề việc làm, thị trường lao động, sức khỏe của người lao động, …

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đánh giá việc điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu để đề xuất phương án phù hợp trình Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định.

188. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: “Đề nghị thành lập các Trung tâm giáo dục hòa nhập (mở rộng quy mô lớn hơn các trường chuyên biệt) để có đủ điều kiện giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập với cộng đồng”

Trả lời: Tại công văn số  1259/LĐTBXH-VP  ngày 4/4/2017

Tiếp thu kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét, đề xuất theo thẩm quyền.

189. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị Cử tri đề nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét nâng mức trợ cấp cho các đối tượng thương binh, liệt sĩ, gia đình chính sách,…, vì mức trợ cấp hiện nay không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Bên cạnh đó, cần xem xét giải quyết nhanh chế độ đối với người tham gia cách mạng bị tù đày, cử tri phản ánh còn rất nhiều trường hợp trên toàn quốc chưa được hưởng chế độ này và đa số đều là người cao tuổi.

Trả lời: Tại công văn số 1371/LĐTBXH-VP  ngày  14/4/2017

a) Về kiến nghị xem xét nâng mức trợ cấp cho các đối tượng

Chế độ, chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng được xây dựng căn cứ theo mức độ cống hiến, hy sinh của mỗi diện đối tượng, cân đối trong hệ thống chính sách xã hội nói chung và phù hợp với khả năng kinh tế - xã hội của đất nước theo từng giai đoạn.

Thực hiện đề án cải cách chế độ trợ cấp ưu đãi đối với người có công, mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công với cách mạng đã được điều chỉnh tăng hàng năm, mức chuẩn trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng luôn ở mức cao nhất trong các chính sách xã hội, cân đối với việc nâng lương và trợ cấp bảo hiểm xã hội. Thực tế hiện nay, mức chuẩn trợ cấp người có công là 1.318.000 đồng đã được thực hiện từ ngày 01/01/2015, trong khi từ ngày 01/5/2016 (hơn 01 năm sau), mức lương cơ sở áp dụng cho cán bộ, công chức mới được điều chỉnh tăng lên 1.210.000 đồng.

 Năm 2017, thực hiện Nghị quyết số 27/2016/QH14 ngày 11/11/2016 của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước năm 2017, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã dự thảo Nghị định quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công với cách mạng để trình Chính phủ ban hành vào 01/7/2017. Dự kiến mức chuẩn trợ cấp người có công mới sẽ là 1.417.000 đồng.

b) Về giải quyết nhanh chế độ đối với người tham gia cách mạng bị tù đày

Việc xác nhận và giải quyết chế độ người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày, cần đảm bảo các giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều 33 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 và Điều 9 Thông tư số 16/2014/TT-BLĐTBXH ngày 30/7/2014 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

Đối với trường hợp bị thất lạc hồ sơ lưu trữ và hồ sơ gốc mà cũng không có các giấy tờ khác có cơ sở pháp lý thì hiện nay chưa đủ căn cứ để xác nhận, giải quyết chế độ người bị địch bắt, tù đày. Trong thời gian tới, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tiếp tục nghiên cứu, xem xét xử lý cụ thể nội dung này.

Hiện nay, lương của cán bộ, công chức về hưu trước ngày 01/4/1993 rất thấp, không trang trải được nhu cầu cuộc sống, cử tri đề nghị nhà nước có chính sách thỏa đáng để tăng mức lương cho các đối tượng là cán bộ hưu trí về hưu trước năm 1993 vì thời điểm này cán bộ hưu trí hưởng mức lương cũ, khá thấp so với mức sống hiện nay.

Một trong những nguyên tắc bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội là “mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội”, mức lương hưu hàng tháng của người lao động được tính trên cơ sở thời gian đóng bảo hiểm xã hội và mức tiền lương làm căn cứ tính đóng bảo hiểm xã hội. Như vậy, mức lương hưu của người nghỉ hưu cao hay thấp sẽ phụ thuộc vào thời gian đóng, mức tiền lương của người lao động khi còn làm việc.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới đời sống của những người nghỉ hưu, trong đó có người nghỉ hưu trước năm 1993. Trong giai đoạn 2003 - 2007, Chính phủ đã 05 lần điều chỉnh lương hưu với mức tăng từ 164,8% đến 228,8% (tuỳ thuộc vào mức lương khi nghỉ hưu và thời điểm nghỉ hưu) so với mức lương hưu của tháng 12 năm 2002, trong đó người nghỉ hưu trước tháng 9 năm 1985 và trước tháng 4 năm 1993 được điều chỉnh với tỷ lệ cao hơn những người nghỉ hưu ở giai đoạn từ tháng 4 năm 1993 trở về sau. Trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay, Chính phủ cũng đã 08 lần điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng với mức tăng thêm 168,5% so với cuối năm 2007.

Thông qua việc thực hiện điều chỉnh lương hưu nêu trên, đời sống của người nghỉ hưu từng bước được cải thiện và Chính phủ cũng đã thực hiện các biện pháp nhằm giảm bớt chênh lệch lương hưu của người nghỉ hưu giữa các thời kỳ. Tuy nhiên, do chính sách bảo hiểm xã hội được thực hiện theo nguyên tắc đóng - hưởng, tiền lương của người lao động ở thời kỳ sau luôn có xu hướng được cải thiện hơn so với thời kỳ trước và do đó khi nghỉ hưu cũng thường có mức lương hưu cao hơn, việc điều chỉnh lương hưu nhằm đảm bảo sự tương quan về mức lương hưu giữa các thời kỳ nhưng cũng chưa xử lý triệt để được.

Riêng đối với những người nghỉ hưu có mức lương hưu thấp (bao gồm cả người nghỉ hưu trước và sau tháng 4 năm 1993), ngày 11/11/2015, trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 99/2015/QH13 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016, theo đó “Từ ngày 01/01/2016, thực hiện điều chỉnh tiền lương đối với người có mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động dưới 2.000.000 đồng/tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian công tác trước năm 1995 để lương hưu của các đối tượng này đạt mức lương cơ sở...”

Triển khai Nghị quyết số 99/2015/QH13 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2016/NĐ-CP ngày 15/6/2016 điều chỉnh mức lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng và trợ cấp đối với giáo viên mầm non có thời gian làm việc trước năm 1995; ngày 15/7/2016, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 23/2016/TT-BLĐTBXH hướng dẫn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng. Theo đó từ ngày 01/01/2016, tăng thêm 250.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng lương hưu có mức lương hưu dưới 2 triệu đồng/tháng và tăng thêm 150.000 đồng/người/tháng đối với người hưởng trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hằng tháng với mức trợ cấp dưới 2 triệu đồng/tháng.

Trên cơ sở kết quả thực hiện việc điều chỉnh lương hưu, trợ cấp nêu trên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành rà soát, đánh giá và đề xuất các phương án điều chỉnh lương hưu cho các giai đoạn tiếp theo.

Cử tri phản ánh hiện nay, một số người lao động nghỉ việc không được hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo quy định rơi vào một số trường hợp sau: (1) Sổ bảo hiểm xã hội và quyết định nghỉ việc không cùng thời điểm. Một số trường hợp có quyết định nghỉ việc nhưng sổ bảo hiểm xã hội thì chưa chốt nên khi khi nộp hồ sơ  tại Trung tâm dịch vụ việc làm không đúng quy định hoặc trễ hạn, từ đó, người lao động không được giải quyết chính sách. (2) Số người lao động ở tỉnh do họ không nắm được quy định thủ tục hưởng bảo hiểm thất nghiệp nên sau khi họ nghỉ việc, về quê chờ kết quả của cơ quan công tác báo có quyết định nghỉ và sổ bảo hiểm xã hội  thì thường là hết hạn nộp hồ sơ theo quy định, ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động. Do đó, kiến nghị các Bộ, ngành chức năng xem xét lại vấn đề này để người lao động được hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp đầy đủ khi họ nghỉ việc.

Hiện nay, theo quy định tại các văn bản hiện hành có liên quan (Bộ luật Lao động, Luật Việc làm, Nghị định số 28/2015/NĐ-CP, Nghị định số 28/2015/NĐ-CP),            đã có quy định rõ ràng về trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động, xác nhận về việc đóng bảo hiểm thất nghiệp trên sổ bảo hiểm xã hội và thời hạn giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp của người lao động.

Với thời hạn 03 tháng, người lao động hoàn toàn chủ động để hoàn thiện hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp và nộp hồ sơ tại bất kỳ trung tâm dịch vụ việc làm nào theo nhu cầu, nguyện vọng của mình (Hiện nay, trên cả nước có 230 điểm tiếp nhận hồ sơ hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp). Ngành lao động – thương binh và xã hội đã và đang phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan tích cực cải tiến thủ tục hành chính, quy trình tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp để tạo điều kiện cho người lao động trong quá trình tham gia và hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Theo báo cáo của các địa phương, bất kỳ người lao động đang đóng bảo hiểm thất nghiệp bị chấm dứt hợp đồng lao động/hợp đồng làm việc mà có nhu cầu tìm kiếm việc làm đều được tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí. Tất cả những người lao động có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp và đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định tại Điều 49 Luật việc làm đều được giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp và các chế độ khác theo quy định hiện hành.

Về kiến nghị của cử tri, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tiếp thu, nghiên cứu và đề xuất sửa đổi về chính sách, trình tự thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người lao động trong việc hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Trước mắt, ngành lao động - thương binh và xã hội tiếp tục phối hợp với các ngành, cơ quan đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bảo hiểm thất nghiệp dưới nhiều hình thức phong phú để nâng cao nhận thức của người lao động, người sử dụng lao động, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tham gia và hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp.

4. Đề nghị nghiên cứu, sửa Luật Người cao tuổi theo hướng cho tất cả những người đến 80 tuổi được hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng, không phân biệt cán bộ hưu trí với các đối tượng khác, nhằm đảm bảo sự công bằng trong thụ hưởng các chính sách bảo trợ xã hội của Nhà nước cho cùng một đối tượng; đồng thời xem xét giảm độ tuổi được hưởng chính sách này từ 80 tuổi xuống còn 75 tuổi, do hiện nay ở nông thôn vào độ tuổi này sức khỏe các cụ đã giảm nhiều; Bởi, theo ý kiến của các cụ, đây là chính sách của Đảng và Nhà nước đã động viên rất lớn đến tinh thần, giúp các cụ phấn đấu đẻ sống vui, sống khỏe.

- Về kiến nghị cho tất cả những người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng và đề nghị hạ độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội xuống 75 tuổi:

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp tục chỉ đạo các cơ quan chức năng tổng hợp, trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định trong quá trình nghiên cứu, sửa đổi Luật Người cao tuổi.

- Về kiến nghị nâng mức trợ cấp xã hội đối với người cao tuổi, người tàn tật:

Trong thời gian qua, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã nhiều lần trình Chính phủ ban hành văn bản mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội, điều chỉnh tăng mức trợ cấp, mức trợ giúp đột xuất cho các đối tượng bảo trợ xã hội trong đó có người cao tuổi, trẻ em khuyết tật, người khuyết tật, trẻ em mồ côi. Gần đây nhất, Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 nâng mức trợ cấp xã hội, trong đó nâng cao mức chuẩn trợ cấp xã hội từ 180.000 đồng lên 270.000 đồng. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể đối tượng được hưởng hệ số khác nhau, hệ số 1 nếu không khó khăn, hệ số 2-4 nếu đối tượng có hoàn cảnh khó khăn khác nhau.

Việc nâng mức chuẩn trợ cấp cho các đối tượng lên đồng loạt 270.000 đồng/người/tháng và thực hiện đầy đủ các chính sách quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP trong bối cảnh khó khăn về ngân sách là sự cố gắng lớn của Chính phủ. Vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xin nghiên cứu ý kiến này để trình cơ quan có thẩm quyền vào thời gian thích hợp.

5. Cử tri cho rằng, thời gian qua các hộ cận nghèo đã được Đảng, Nhà nước quan tâm, có chính sách hỗ trợ tích cực, kịp thời. Tuy nhiên, hiện nay mức hỗ trợ đối với các hộ cận nghèo còn thấp, chưa tạo cú hích để bà con đầu tư sản xuất, thoát nghèo bền vững. Cử tri kiến nghị Chính phủ tiếp tục quan tâm, tăng nguồn vốn vay, tiếp tục nghiên cứu có giải pháp khả thi để hộ nghèo có điều kiện thoát nghèo bền vững.

Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã hết sức quan tâm để tạo điều kiện cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi để phát triển sản xuất và thoát nghèo thông qua việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản. Ngày 26/4/2016, Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội đã ban hành Quyết định số 32/QĐ-HĐQT về việc nâng hạn mức cho vay tối đa đối với hộ nghèo và hộ cận nghèo từ 30 triệu đồng/hộ lên 50 triệu đồng/hộ.

Tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện tùy thuộc vào nguồn lực huy động được của Ngân hàng Chính sách xã hội, nhu cầu vốn của hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, chu kỳ sản xuất kinh doanh, Ngân hàng Chính sách xã hội xác định hạn mức cho vay và thời gian vay phù hợp với phương châm huy động tối sự tham gia của người dân và phát huy hiệu quả sử dụng vốn vay. Việc nâng hạn mức cho vay các chương trình tín dụng ưu đãi sẽ căn cứ vào tình hình thực tế, khả năng đáp ứng của ngân sách, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cùng các Bộ, ngành có liên quan sẽ đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét nâng hạn mức cho vay các chương trình.

Đồng thời, nhằm gia tăng nguồn vốn thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi cho các đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ thoát nghèo và các đối tượng chính sách khác, ngày 24/01/2017, Ngân hàng Chính sách xã hội đã ban hành Quyết định số 01/QĐ-HĐQT của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Phương án phát hành trái phiếu Ngân hàng Chính sách xã hội được Chính phủ bảo lãnh năm 2017.

6. Có cử tri đề nghị không nên tăng tuổi nghỉ hưu nữ lên 60 tuổi, đây là vấn đề liên quan đến sức khỏe của nữ giới; khả năng sẽ không đóng đủ thời gian bảo hiểm (vì sức khỏe giảm sút phải nghỉ trước tuổi), cơ quan có thẩm quyền cần tính toán kỹ, khách quan. Kiến nghị giữ nguyên độ tuổi nghỉ hưu đối với nữ giới như hiện tại là 55 tuổi.

Thực hiện Nghị quyết số 22/2016/QH14 ngày 29/7/2016 của Quốc hội về việc điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017 và phân công của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 1840/QĐ-TTg ngày 23/9/2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được giao chủ trì soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động. 

Trong quá trình đánh giá tổng kết tình hình 3 năm thực hiện Bộ luật lao động để làm cơ sở cho việc đề xuất sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động, đã có những ý kiến đề nghị cần thiết phải xem xét điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu để tận dụng nguồn nhân lực có trình độ, có kinh nghiệm. Hiện nay, Ban soạn thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) đang trong quá trình nghiên cứu, đánh giá tác động, đề xuất các phương án.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đánh giá việc điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu để đề xuất phương án phù hợp trình Chính phủ, trình Quốc hội xem xét, quyết định khi sửa Bộ luật Lao động.

7. Cử tri phản ánh theo quy định phụ nữ được nghỉ thai sản 06 tháng sau khi sinh, tuy nhiên hiện nay nhà trẻ công lập không nhận trẻ từ 06 tháng tuổi. Đề nghị các Bộ, ngành liên quan cần có giải pháp về vấn đề này.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp thu kiến nghị của cử tri để đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét, giải quyết theo thẩm quyền.

8. Kiến nghị các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, xem xét điều chỉnh mô hình, chế độ cai nghiện ma túy tập trung cho phù hợp hơn, nhằm vừa đảm bảo nâng cao hiệu quả cai nghiện, giúp người nghiện sớm cai nghiện thành công trở về với gia đình, giảm quá tải tại các trung tâm cai nghiện, vừa đảm bảo an ninh trật tự tại đơn vị và cho cả người dân ở các khu vực lân cận, tránh tình trạng đạp phá, trốn trại, gây mất an toàn, an ninh trật tự tại một số địa phương như vừa qua.

Trước tình trạng số người sử dụng trái phép các chất ma túy ngày càng gia tăng trong khi một số biện pháp cai nghiện áp dụng thời gian qua chưa đạt hiệu quả như mong muốn, ngày 27/12/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2596/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020.

Ngày 26/12/2014, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 98/NQ-CP về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới. Theo đó, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt là: cai nghiện nghiện ma túy là một quá trình lâu dài bao gồm tổng thể các can thiệp hỗ trợ về y tế, tâm lý, xã hội làm thay đổi nhận thức, hành vi nhằm giảm tác hại của nghiện ma túy và giảm tình trạng sử dụng ma túy trái phép; thực hiện đa dạng hóa các biện pháp và mô hình cai nghiện; tăng dần cai nghiện tự nguyện, giảm dần cai nghiện bắt buộc với lộ trình phù hợp, Nhà nước đầu tư nguồn lực và khuyến khích xã hội hóa công tác dự phòng và cai nghiện ma túy.

Bên cạnh việc các bộ, ngành, địa phương tích cực triển khai thực hiện Quyết định số 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 26/12/2014 của Chính phủ nêu trên, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các bộ, ngành tiếp tục triển khai đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật ma túy, tác hại ma túy, nghiện ma túy, các biện pháp dự phòng ma túy và điều trị ma túy. Tuyên truyền, nhân rộng các điển hình tốt về cai nghiện ma túy, cải tiến phương pháp tiếp cận mới về công tác điều trị cai nghiện ma túy, mở rộng mạng lưới tư vấn và điều trị tự nguyện tại cộng đồng. Đẩy mạnh triển khai Quyết định số 29/2014/QĐ-TTg ngày 26/4/2014 về tín dụng đối với hộ gia đình và người nhiễm HIV, người sau cai nghiện ma túy, người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, người bán dâm hoàn lương. Tiếp tục nâng cao nhận thức về tội phạm ma túy và hậu quả nghiêm trọng của việc sử dụng trái phép chất ma túy, đặc biệt là ma túy tổng hợp (ATS), xác định cả hệ thống chính trị cùng toàn dân chung tay đấu tranh trong cuộc đấu tranh bảo vệ và phòng chống ma túy. Tập trung thực hiện 3 giảm: giảm cung, giảm cầu, giảm tác hại. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách, nhất là sửa đổi Luật phòng chống ma túy, Luật xử lý vi phạm hành chính. Đầu tư đủ kinh phí, cơ sở vật chất cho công tác đấu tranh phòng chống ma túy và cai nghiện ma túy; đảm bảo quyền tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ người sử dụng ma túy và nghiện ma túy. Tăng cường công tác cán bộ, đào tạo và phối hợp, làm rõ trách nhiệm từng ngành, từng cấp.

 


[1]Số liệu đề nghị quyết toán năm 2015 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.  

Ban Dân nguyện