20. Bộ Y tế

24/05/2017 14:35

Bộ Y Tế trả lời về việc trả lời 111 kiến nghị cử tri gửi đến kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV  tại Công văn số 1241/BYT-VPB1, ngày 15/3/2017 như sau.

1. Cử tri tỉnh Đồng Nai, Hà Nội, Nam Định, Quảng Bình, Ninh Thuận kiến nghị: Cử tri đề nghị sớm có giải pháp tổng thể, tích cực hơn, triển khai thực hiện đồng bộ chủ trương giảm quá tải bệnh viện tuyến trên. Đồng thời, đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích đầu tư cho y tế và sử dụng nguồn tài chính y tế hiệu quả .

Trả lời:

I. Về vấn đề giảm quá tải bệnh viện tuyến trên

Từ năm 2013, Bộ Y tế đã triển khai Đề án giảm quá tải bệnh viện giai đoạn 2013-2020 (được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định số 92/QĐ-TTg ngày 09/01/20113), với giải pháp đồng bộ để giảm quá tải bệnh viện, trước mắt tập trung giải quyết tình trạng quá tải ở một số chuyên khoa như ung bướu, ngoại - chấn thương, tim mạch, sản và nhi thuộc một số bệnh viện tuyến trung ương, bệnh viện tuyến cuối của hai thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tám giải pháp đã được triển khai đồng bộ, gồm:

1. Đầu tư nâng cấp, mở rộng cơ sở hạ tầng bệnh viện để tăng thêm giường bệnh cho các chuyên khoa ung bướu, ngoại - chấn thương, tim mạch, sản và nhi.

2. Thành lập và phát triển mạng lưới bệnh viện vệ tinh.

3. Thí điểm xây dựng mô hình phòng khám bác sĩ gia đình.

4. Tiếp tục củng cố và hoàn thiện mạng lưới trạm y tế xã trong cả nước; tăng cường đầu tư, xây dựng để các trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia theo quy định, gắn với Chương trình xây dựng nông thôn mới.

5. Đẩy mạnh các hoạt động y tế dự phòng.

6. Tăng cường công tác quản lý và nâng cao toàn diện chất lượng bệnh viện.

7. Xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách.

8. Thông tin, truyền thông.

Song song với các giải pháp trên, Bộ Y tế đã chủ động triển khai các giải pháp khác liên quan, như quy định về đăng ký khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, chuyển tuyến, thông tuyến kỹ thuật trong khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, đặc biệt là đổi mới cơ chế tài chính với việc điều chỉnh giá viện phí theo hướng tính đúng, tính đủ giá viện phí, đây là tiền đề giúp các cơ sở khám chữa bệnh, nhất là y tế cơ sở, có nguồn lực để tái đầu tư, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, từ đó góp phần giảm quá tải cho bệnh viện tuyến trên. Kết quả sau 4 năm thực hiện Đề án, tình trạng quá tải của nhiều bệnh viện tuyến tỉnh, Trung ương đã cơ bản được cải thiện.

II. Về vấn đề xã hội hóa trong lĩnh vực y tế

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực y tế, trong thời gian qua, Bộ Y tế đã tham mưu trình Chính phủ, Quốc hội ban hành nhiều văn bản để đưa chính sách này và cuộc sống, như Luật khám bệnh, chữa bệnh khuyến khích phát triển các bệnh viện tư, Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ (trước đây là Nghị định số 53/2006/NĐ-CP ngày 25/5/2006) về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dậy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường, Nghị quyết số 93-NQ/CP ngày 15/12/2014 của Chính phủ quy đinh một số cơ chế, chính sách phát triển y tế, trong đó cho phép các đơn vị y tế phát triển theo mô hình mới, kết hợp công - tư.

Trong các văn bản nêu trên, Chính phủ đã cho phép bệnh viện, trung tâm y tế vay vốn của các tổ chức tín dụng, liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân để đầu tư về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ công tác khám, chữa bệnh đáp ứng nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh của người dân, nhất là các đối tượng có khả năng chi trả, hạn chế người bệnh phải đi khám, chữa bệnh ở nước ngoài. Nhờ triển khai chính sách này, người dân, trong đó có cả người nghèo, cận nghèo, trẻ em, đối tượng chính sách xã hội, người dân ở vùng miền núi, khó khăn cũng được hưởng lợi vì được sử dụng các dịch vụ này, kể cả dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn và được bảo hiểm y tế thanh toán vì ở nhiều bệnh viện, các trang thiết bị xã hội hoá được dùng chung cho toàn bộ bệnh viện. Cũng thông qua“xã hội hóa”, các cơ sở khám chữa bệnh đã có nguồn lực để  trang bị được nhiều loại thiết bị hiện đại, tiên tiến như hệ thống PET.CT, CT-Scanner các loại (có cả loại 256, 128 và 64 lớp cắt), hệ thống cộng hưởng từ (MRI), máy gia tốc tuyến tính, các thiết bị tán sỏi ngoài cơ thể, mổ Phaco, siêu âm màu, máy xét nghiệm các loại..., nhờ đó đã nâng cao hiệu quả chẩn đoán và điều trị, phát hiện sớm, chính xác bệnh tật, giảm tỷ lệ tử vong. Nhiều kỹ thuật mới, kỹ thuật cao đã được thực hiện làm cho trình độ kỹ thuật y tế của Việt Nam đang dần tiến bộ ngang với các nước tiên tiến trong khu vực.

Trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ phối hợp với các Bộ ngành để xây dựng và hoàn thiện các thể chế, cơ chế chính sách để thu hút các nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ y tế để mọi người dân, trong đó có cả người dân ở vùng miền núi, khó khăn cũng được thụ hưởng.

2. Cử tri các tỉnh Đắk Lắk, Đồng Nai, Nam Định, Quảng Nam, Quảng Trị, Tiền Giang, TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Hiện nay, công nghệ trên thế giới phát triển rất nhanh và thường xuyên thay đổi, trong khi đó, hầu hết các trang thiết bị y tế tại các bệnh viện đều lạc hậu, nhất là các bệnh viện từ tuyến tỉnh trở xuống.

Đề nghị xem xét, tăng cường đầu tư trang thiết bị, công trình y tế, có chính sách chuyển giao, ứng dụng công nghệ mới và bổ sung nhân lực trong khám, chữa bệnh cho các bệnh viện tuyến tỉnh, trung tâm y tế tuyến huyện, bệnh viện huyện hoặc thực hiện xã hội hóa để giúp hoạt động khám, chữa bệnh cho người dân ở vùng sâu, vùng xa được kịp thời, hiệu quả và giảm quá tải cho bệnh viện tuyến trung ương.

Trả lời:

Trong hơn một thập kỷ qua, Đảng và Quốc hội, Chính phủ đã đặc biệt quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng và trang thiết bị cho ngành Y tế. Nhiều bệnh viện được xây mới, được nâng cấp và mở rộng, nhiều trang thiết bị y tế đã được trang bị cho các cơ sở khám chữa bệnh, bao gồm cả những thiết bị hiện đại, kỹ thuật cao như robot phẫu thuật, máy cộng hưởng từ, máy CT scanner, máy chụp mạch, PET/CT... Nhờ đó đã cải thiện đáng kể tình trạng giảm quá tải bệnh viện, giảm tình trạng nằm ghép của bệnh nhân, nâng cao năng lực chẩn đoán, điều trị tại các cơ sở y tế công lập, ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.

Những dự án lớn về đầu tư trang thiết bị y tế cho các bệnh viện được Chính phủ chỉ đạo Bộ Y tế và các Bộ ngành thực hiện từ năm 2005 đến nay bao gồm: Đề án nâng cấp bệnh viện huyện và bệnh viện đa khoa khu vực giai đoạn 2005-2008 (theo Quyết định 225/2005/QĐ-TTg), trong đó quy định mua sắm trang thiết bị y tế thiết yếu theo danh mục do Bộ Y tế quy định phù hợp với quy mô của từng loại bệnh viện; Đề án Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện và bệnh viện đa khoa khu vực liên huyện sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2008-2010 (theo Quyết định 47/2008/QĐ-TTg), trong đó quy định mua sắm trang thiết bị y tế thiết yếu phù hợp với nhu cầu và trình độ cán bộ, phù hợp với quy mô từng loại bệnh viện; Đề án Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các bệnh viện chuyên khoa lao, tâm thần, ung bướu, chuyên khoa nhi và một số bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi khó khăn bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2009-2013, trong đó có đầu tư trang thiết bị đồng bộ với xây dựng cơ sở vật chất cho các bệnh viện.

Ngoài ra, Bộ Y tế cũng triển khai nhiều dự án như dự án Bệnh viện vệ tinh, dự án tăng cường năng lực y tế cho khu vực Bắc Trung bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng,…, trong đó có đầu tư trang thiết bị y tế cho các bệnh viện. Nhiều bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện được chuyển giao nhiều kỹ thuật y tế mới và được tiếp cận, đầu tư nhiều trang thiết bị y tế hiện đại (CT Scanner, MRI, Chụp mạch,...).

Đồng thời Chính phủ khuyến khích thực hiện xã hội hóa việc đầu tư trang thiết bị y tế cho các cơ sở khám chữa bệnh. Thực hiện chính sách này, nhiều bệnh viện và cơ sở khám chữa bệnh tư nhân đã đầu tư các thiết bị kỹ thuật hiện đại phục vụ việc chẩn đoán và điều trị.

Mặc dù đã rất cố gắng tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và trang thiết bị cho hệ thống các cơ sở khám chữa bệnh, nhưng hiện vẫn chưa đủ để đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về chăm sóc sức khỏe của người dân. Vì vậy, trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tiếp tục đề nghị đầu tư trang thiết bị y tế cho các bệnh viện địa phương bằng nhiều nguồn vốn hợp pháp khác, như nguồn từ ngân sách, nguồn vốn xã hội hóa, nguồn đầu tư nước ngoài trên cơ sở thực hiện nguyên tắc đảm bảo sử dụng có hiệu quả thiết bị được cung cấp, tránh lãng phí, lạm dụng để góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, giảm quá tải bệnh viện tuyến Trung ương.

3. Cử tri tỉnh Hưng Yên, Nghệ An kiến nghị: Cử tri đề nghị Nhà nước quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng đối với Trạm y tế tuyến xã, nhằm chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được tốt hơn.

 Cử tri tỉnh Nghệ An, Thái Bình, Tiền Giang kiến nghị: Cử tri đề nghị có cơ chế để nâng cao hơn nữa năng lực khám, chữa bệnh ban đầu cho người dân tại các Trạm Y tế cấp xã (đầu tư thêm trang thiết bị y tế, nâng cao hơn nữa định mức khám, cấp thuốc ban đầu.

Trả lời:

Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã có nhiều văn bản, nghị quyết về củng cố và phát triển y tế cơ sở như: Chỉ thị số 06/CT-TW của Ban Bí thư về củng cố và phát triển mạng lưới y tế cơ sở; Nghị quyết số 68/2013/QH13 của Quốc hội đã đề ra mục tiêu đến năm 2020 hoàn thành đầu tư cho các trạm y tế xã ở vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn …

Nhận thức rõ vai trò của Y tế cơ sở, trong đó có trạm y tế xã là xương sống của hệ thống y tế, đầu tư cho Y tế cơ sở đem lại hiệu quả cao, thực hiện các chủ trương của Đảng, Quốc hội, trong thời gian qua, Bộ Y tế đã xây dựng, trình và được Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 2348/QĐ-TTg ngày 05/12/2016 phê duyệt đề án xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong tình hình mới, trong đó có đề ra mục tiêu đến năm 2020 hoàn thành đầu tư cho các trạm y tế xã ở vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn.

Theo phân cấp quản lý ngân sách hiện nay, việc đầu tư cho các cơ sở y tế thuộc địa phương quản lý (trong đó có các trạm y tế) thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương, ngân sách trung ương chỉ hỗ trợ. Trong thời gian vừa qua, Bộ Y tế đã đề nghị nhưng do ngân sách Trung ương khó khăn nên chưa bố trí được nguồn vốn để hỗ trợ các địa phương đầu tư cho trạm y tế xã. Tuy nhiên, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Quốc hội, Bộ Y tế cũng đã kêu gọi và sử dụng một số kinh phí của các dự án vốn vay, viện trợ không hoàn lại để đầu tư cho trạm y tế xã nhưng chưa được nhiều.

Để có nguồn vốn tập trung đầu tư cho trạm y tế xã, Bộ Y tế đã và đang làm việc với Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) để xây dựng 2 dự án đầu tư cho trạm y tế xã, và sẽ trình Chính phủ trong thời gian tới.

Bộ Y tế đề nghị cử tri khuyến nghị với chính quyền địa phương  ưu tiên, bố trí ngân sách địa phương và sử dụng các nguồn vốn hợp pháp khác như nguồn xổ số kiến thiết… để đầu tư cho các trạm y tế xã của tỉnh.

4. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri đề nghị xem xét đầu tư xây dựng mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương một “Khoa lão” hoặc “Nhà dưỡng lão” nhằm tạo điều kiện chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi .

Trả lời:

Khoản 2 Điều 2 của Thông tư số 35/2011/TT-BYT ngày 15/10/2011 của Bộ Y tế về việc Hướng dẫn thực hiện chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi đã quy định: Các bệnh viện đa khoa, bệnh viện chuyên khoa (trừ bệnh viện chuyên khoa Nhi), bệnh viện y học cổ truyền có quy mô từ 50 giường bệnh kế hoạch trở lên phải bố trí giường bệnh điều trị nội trú và tổ chức buồng khám bệnh riêng cho người cao tuổi tại khoa khám bệnh. Đồng thời căn cứ vào nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh của người cao tuổi, khuyến khích các bệnh viện thành lập khoa Lão khoa khi có đủ điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế và nhân lực.

5. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri phản ảnh, hiện nay cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và nhân lực tại các cơ sở y tế tuyến dưới chưa được đầu tư đúng mức, dẫn đến tình trạng người dân đến khám, chữa bệnh ban đầu thực hiện các xét nghiệm nhưng không phát hiện được bệnh hoặc khi phát hiện được bệnh nhưng không đủ năng lực để chữa trị, buộc phải chuyển lên tuyến trên. Khi người bệnh lên tuyến trên thì phải làm lại các thủ tục khám và xét nghiệm như ban đầu. Đề nghị có biện pháp khắc phục, xử lý vấn đề này trong thời gian tới.

Trả lời:

1. Về đầu tư cơ sở vật chất cho y tế tuyến dưới

Theo phân cấp quản lý được quy định trong Luật Ngân sách Nhà nước (NSNN) và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật, địa phương có trách nhiệm sử dụng ngân sách địa phương để đầu tư cho  các cơ sở y tế do địa phương quản lý, ngân sách từ Trung ương chỉ mang tính chất hỗ trợ.

Tuy nhiên, trong thời gian qua, Bộ Y tế nhận thấy ngân sách địa phương có khó khăn nên việc đầu tư từ nguồn ngân sách địa phương cho các cơ sở y tế địa phương còn rất hạn chế, ở nhiều nơi, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị chưa đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng cao của người dân, dẫn đến người dân vượt tuyến, gây quá tải cho các bệnh viện tuyến trên. Vì vậy, Bộ Y tế đã đề xuất một số giải pháp để tăng đầu tư cho y tế địa phương và được Quốc hội, Chính phủ cho phép, như:

- Tăng đầu tư từ ngân sách cho y tế theo Nghị quyết số 18/2008/QH12, đảm bảo tốc độ tăng chi cho y tế cao hơn tốc độ tăng chi bình quân chung của NSNN. Chính phủ đã chỉ đạo các địa phương ưu tiên sử dụng ngân sách địa phương, nguồn xổ số để đầu tư cho y tế địa phương. Quốc hội đã cho phép sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ để đầu tư cho các dự án bệnh viện tuyến huyện theo Quyết định số 47/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đầu tư cho các bệnh viện chuyên khoa lao, tâm thần, ung bướu, sản nhi và một số bệnh viện đa khoa tỉnh miền núi, khó khăn theo Quyết định số 930/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; trong thời gian vừa qua đã hoàn thành đưa vào sử dụng 760 bệnh viện/trung tâm y tế các tuyến.

 Tuy nhiên đối với tuyến xã: Y tế xã/phường/thị trấn, nơi trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân thực tế chưa được đầu tư nhiều, mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 950/QĐ-TTg phê duyệt đề án đầu tư nâng cấp trạm y tế xã, song đến nay vẫn chưa bố trí được nguồn vốn riêng đầu tư nên việc đầu tư còn rất khó khăn. Trước thực trạng đó, Bộ Y tế đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 2348/QĐ-TTg ngày 05/12/2016 phê duyệt Đề án Xây dựng và Phát triển y tế cơ sở trong tình hình mới.

- Bộ Y tế đang xây dựng đề xuất để triển khai thực hiện các nội dung của Đề án Xây dựng và Phát triển y tế cơ sở trong tình hình mới gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ xem xét cho phép được triển khai bằng nguồn ngân sách Trung ương hỗ trợ và huy động các nguồn ODA để các địa phương tập trung các nguồn lực thực hiện các nội dung của Đề án trong giai đoạn 2017 – 2025.

- Do nhu cầu đầu tư còn rất lớn, trong khi nguồn tài chính của Trung ương có hạn, nên rất cần sự quan tâm của các cấp ủy đảng, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các địa phương trong việc tăng cường đầu tư cho y tế địa phương để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận được với dịch vụ khám chữa bệnh chất lượng cao ngay tại địa phương, dần từng bước xóa bỏ tình trạng quá tải ở bệnh viện tuyến trên. Bộ Y tế cũng đề nghị cử tri có ý kiến để Quốc hội tiếp tục tăng đầu tư cho y tế.

2. Về vấn đề nhân lực y tế tuyến dưới

Trong những năm vừa qua Bộ Y tế đã triển khai một số giải pháp nhằm tăng cường nhân lực cho y tế tuyến cơ sở, như:

   - Tham mưu, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 117/2014/NĐ-CP quy định cán bộ y tế làm việc tại Trạm y tế là viên chức, do Trung tâm y tế huyện quản lý. Giám đốc Trung tâm y tế huyện có thể điều động, luân chuyển viên chức công tác tại các Trạm y tế xã, đảm bảo hoạt động chuyên môn tại các Trạm Y tế xã.

   - Tham mưu, trình Thủ tướng ban hành Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 về việc thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và Thông tư số 18/2014/TT-BYT ngày 02/06/2014 của Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, trong đó hướng dẫn thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với bác sỹ, điều dưỡng, hộ sinh từ tuyến Trung ương xuống tỉnh, tỉnh xuống huyện, huyện xuống xã, từ vùng không khó khăn đến vùng khó khăn.

- Bộ Y tế đã thực hiện tốt Đề án 1816 và Đề án bệnh viện vệ tinh về hỗ trợ và chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới, qua đó tăng cường đội ngũ cán bộ chuyên môn tay nghề giỏi tại tuyến cơ sở để cung cấp các dịch vụ y tế có chất lượng, gần dân hơn, hiệu quả hơn. Nhiều địa phương đã tổ chức các đội y tế lưu động, khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa.

   - Tăng cường đào tạo:

+ Đào tạo nhân lực tại chỗ: Đối với các tỉnh còn khó khăn về nhân lực, đề nghị tiếp tục tăng cường công tác đào tạo cán bộ y-dược dưới nhiều loại hình đào tạo (chính quy, cử tuyển, liên thông, đào tạo theo địa chỉ) với quy mô hợp lý cho đối tượng là người địa phương, sau khi tốt nghiệp trở về công tác tại địa phương nhằm giúp các tỉnh tháo gỡ khó khăn về nhân lực. Giảm dần quy mô đào tạo cử tuyển khi đã có đủ cán bộ.

+ Đào tạo liên tục (hỗ trợ của các dự án, đề án 1816, bệnh viện vệ tinh, bệnh viện hạt nhân…): Cán bộ y tế cơ sở đã được đào tạo, đào tạo lại, cập nhật kiến thức mới, góp phần nâng cao năng lực cho tuyến y tế cơ sở để có thể thực hiện tốt chăm sóc sức khỏe ban đầu, giảm tình trạng vượt tuyến không cần thiết.

+ Thực hiện Dự án thí điểm đưa bác sỹ trẻ tình nguyện về công tác vùng khó khăn, 62 huyện nghèo: Để có nguồn nhân lực y tế chất lượng phục vụ công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân được tốt, tiến tới mọi người dân được bình đẳng trong việc thụ hưởng dịch vụ y tế chất lượng, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 585/QĐ-BYT phê duyệt Dự án “Thí điểm đưa bác sĩ trẻ tình nguyện về công tác tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (ưu tiên 62 huyện nghèo)” nhằm thu hút bác sỹ trẻ mới ra trường tình nguyện về công tác tại các vùng khó khăn.

Bên cạnh đó, Bộ Y tế đang xây dựng các chế độ chính sách nhằm thu hút cán bộ y tế về công tác tại tuyến cơ sở:

- Để thu hút cán bộ y tế về công tác tại tuyến cơ sở, đặc biệt là tuyến xã/phường, trong thời gian qua, Bộ Y tế đã luôn chú trọng nghiên cứu, đề xuất các chế độ chính sách đặc thù của ngành, bên cạnh việc được hưởng các chính sách như: Chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập với mức phụ cấp từ 20% đến 70 % mức lương hiện hưởng (Nghị định số 56/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011); Chế độ phụ cấp độc hại đối với công chức, viên chức ngành Y tế (Công văn số 6608/BYT-TCCB ngày 22/8/2005); Chế độ phụ cấp đặc thù của y tế: phụ cấp thường trực, phẫu thuật, chống dịch (Quyết định số 73/2012/QĐ-TTg); Chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh (Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg), cán bộ,viên chức y tế công tác tại tuyến y tế cơ sở hiện được hưởng các chế độ phụ cấp được quy định trong các văn bản sau:

+ Nghị định số 64/2009/NĐ-CP quy định về chính sách đối với cán bộ, viên chức y tế công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và Thông tư liên tịch số 06/2010/TTLT-BYT-BNV-BTC ngày 22/3/2010 của liên Bộ Y tế, Nội vụ, Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 64/2009/NĐ-CP.

+ Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg ngày 11/5/2009 về việc quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản.

- Đối với y tế xã/phường, thực hiện Nghị định của Chính phủ quy định một số vấn đề về tổ chức và chế độ chính sách đối với y tế cơ sở, trong đó quy định cán bộ Trạm Y tế xã, phường, thị trấn thuộc Trung tâm y tế tuyến huyện, viên chức của Trạm Y tế (trong đó có bác sỹ) là viên chức của Trung tâm y tế.

- Bên cạnh đó, một số tỉnh đã chủ động ban hành những chính sách thu hút, đãi ngộ đối với đội ngũ bác sỹ về công tác tại trạm y tế xã, qua đó, đã thu hút được nhiều bác sỹ về công tác tại trạm y tế xã (Quảng Nam, Quảng Ngãi ...).

Trong thời gian tới, Bộ Y tế tiếp tục nghiên cứu có các giải pháp và xây dựng các chính sách nhằm tăng cường nhân lực có trình độ chuyên môn về công tác tại tuyến huyện, xã nhằm phát huy hiệu quả công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân:

   - Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị định số 117/2014/NĐ-CP của Chính phủ, nhằm ổn định về tổ chức và nhân lực đối với Trạm y tế xã, phường, thị trấn.

   - Kiểm tra, giám sát thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn đến 2020 do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành theo Quyết định số 4667/QĐ-BYT.

   - Tiếp tục thực hiện Nghị định số 64/2009/NĐ-CP. Tuy nhiên theo quy định của Nghị định, chế độ phụ cấp thu hút chỉ được hưởng trong 5 năm. Do vậy, Bộ Y tế sẽ trình Chính phủ cho viên chức công tác ở vùng khó khăn tiếp tục được hưởng phụ cấp thu hút.

   - Đối với các tỉnh khó khăn và miền núi: Tiếp tục thực hiện đề án đào tạo theo nhu cầu xã hội (theo địa chỉ, cử tuyển).

   - Có chính sách ưu tiên về giáo dục, đào tạo tuyển dụng và sử dụng nhân lực y tế cho vùng khó khăn, y tế các tuyến huyện, xã. Coi trọng hơn nữa công tác tuyển dụng và sử dụng nhân lực y tế.

   - Tăng cường nhân lực y tế đảm bảo đủ nhân lực, duy trì và bổ sung bác sĩ về hoạt động tại Trạm Y tế xã. Nghiên cứu cơ chế đi luân phiên nghĩa vụ, phục vụ tại tuyến y tế cơ sở.

   - Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ và triển khai có hiệu quả các dự án viện trợ cho y tế cơ sở.

   - Nghiên cứu xây dựng chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với công chức, viên chức ngành Y tế.

   - Đề nghị nâng mức lương khởi điểm của bác sĩ tương xứng với thời gian đào tạo 6 năm.

Các giải pháp nêu trên là tương đối đồng bộ để thu hút, phát triển đội ngũ cán bộ y tế tuyến xã. Để thực hiện hiệu quả các giải pháp đó, rất cần sự quan tâm, đầu tư của chính quyền các cấp, đặc biệt là ở tuyến xã.

6. Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị: Đề nghị ngành Y tế quan tâm, xây dựng chính sách đặc thù về phát triển mạng lưới công trình y tế cho vùng Tây Nguyên, trong đó có tỉnh Đắk Lắk.

Trả lời:

Theo phân cấp quản lý của Luật Ngân sách Nhà nước (NSNN) và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật, ngân sách địa phương có nhiệm vụ chi cho các cơ sở y tế do địa phương quản lý, ngân sách Trung ương chỉ mang tính chất hỗ trợ.

Tuy nhiên, trong thời gian qua, Bộ Y tế nhận thấy ở các tỉnh vùng Tây Nguyên ngân sách địa phương có khó khăn nên việc đầu tư từ nguồn ngân sách địa phương cho các cơ sở y tế địa phương còn rất hạn chế, ở nhiều nơi, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị chưa đáp ứng nhu cầu, Bộ Y tế đã trình Chính phủ quan tâm cho y tế vùng Tây Nguyên, ngoài đầu tư từ ngân sách địa phương, còn có:

- Đầu tư từ trái phiếu Chính phủ cho một số bệnh viện tuyến huyện theo Quyết định số 47/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đầu tư cho một số bệnh viện đa khoa tỉnh, bệnh viện lao, tâm thần và bệnh viện đa khoa vùng Tây Nguyên theo Quyết định số 930/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

- Đầu tư từ Dự án chăm sóc sức khỏe nhân dân vùng Tây Nguyên vay vốn của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB). Dự án này đã được thực hiện ở khu vực Tây Nguyên từ năm 2004, hiện nay là giai đoạn 2 với mục tiêu hỗ trợ phát triển hệ thống y tế các tỉnh Tây Nguyên đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của nhân dân ở các tỉnh trong vùng dự án, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng thiệt thòi khác. Theo đó, Dự án tập trung đầu tư xây mới, nâng cấp các trạm y tế xã, phòng khám đa khoa khu vực và bệnh viện huyện; cung cấp trang thiết bị y tế, hệ thống thông tin quản lý y tế cho các tuyến; phát triển nguồn nhân lực y tế thông qua các khóa đào tạo, tập huấn ngắn hạn, dài hạn về chuyên môn, năng lực quản lý; hỗ trợ tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng tại cộng đồng. Tổng nguồn vốn đầu tư Dự án trong giai đoạn 2 là 76,6 triệu USD, trong đó vốn vay ADB là 70 triệu USD, vốn đối ứng là 6,6 triệu USD.

7. Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế đầu tư trang thiết bị cho Bệnh viện Đa khoa vùng Tây Nguyên; đồng thời bố trí vốn để hoàn thành các hạng mục công trình theo đúng tiến độ, để sớm đưa dự này vào sử dụng, tránh lãng phí và phục vụ tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân Tây Nguyên.

Trả lời:

- Thực hiện Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020: “Ưu tiên đầu tư xây dựng hoàn chỉnh các bệnh viện đa khoa vùng tại Sơn La, Thái Nguyên, Hải Phòng, Nam Định, Nghệ An, Bình Định, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Kiên Giang và Tiền Giang với quy mô từ 500 đến 1.000 giường, có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân trong vùng với chất lượng chuyên môn cao, kỹ thuật hiện đại”.

Trong thời gian vừa qua, Chính phủ đã ưu tiên bố trí vốn trái phiếu Chính phủ (TPCP) để đầu tư cho bệnh viện, nhưng do nguồn vốn khó khăn nên mới bố trí được khoảng 1.090 tỷ đồng để UBND tỉnh Đắk Lắk đầu tư xây dựng bệnh viện. Tuy nhiên, hiện nay bệnh viện vẫn chưa hoàn thành và trong dự án chưa có trang thiết bị đồng bộ.

Bộ Y tế cũng đã có đề nghị nhưng chưa được bố trí vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2017-2020 để hoàn thiện bệnh viện. Vì vậy, Bộ Y tế đề nghị cử tri tiếp tục có ý kiến với Quốc hội, Chính phủ để bố trí vốn cho bệnh viện, đồng thời đề nghị UBND tỉnh Đắk Lắk ưu tiên bố trí trong nguồn lực của địa phương để sớm hoàn chỉnh dự án.

Riêng về đầu tư trang thiết bị cho bệnh viện, Bộ Y tế ủng hộ tỉnh trong việc kêu gọi nguồn vốn ODA, tuy nhiên trong trường hợp không vận động được, đề nghị tỉnh nghiên cứu, thực hiện xã hội hóa, kếu gọi đầu tư theo hình thức PPP để sớm có trang thiết bị cho bệnh viện, phục vụ công tác KCB cho nhân dân.

8. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Cử tri đề nghị ngành y cần có chính sách ưu tiên hơn nữa cho người cao tuổi như có nơi làm thủ tục khám, nhập viện riêng, có Khoa lão khoa riêng biệt.

Trả lời:

1. Về chính sách ưu tiên hơn nữa cho người cao tuổi như có nơi làm thủ tục khám, nhập viện riêng

Ngày 26/4/2013, Bộ trưởng Bộ Y tế đã chỉ đạo Sở Y tế 63 tỉnh, thành phố; Bệnh viện, Viện trực thuộc Bộ Y tế và Y tế ngành đã yêu cầu các cơ sở y tế khi khám bệnh, chữa bệnh cho đối tượng nguời cao tuổi (Công văn số 2413/BYT-KCB), trong đó lưu ý những nội dung:

- Người cao tuổi từ 75 tuổi trở lên được ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh ưu tiên khám trước trừ các trường hợp cấp cứu, trẻ em dưới 6 tuổi, người khuyết tật nặng.

- Bố trí giường nằm phù hợp khi người cao tuổi điều trị nội trú.

2. Về thành lập Khoa lão khoa riêng biệt

Khoản 2 Điều 2 của Thông tư số 35/2011/TT-BYT ngày 15/10/2011 của Bộ Y tế về việc Hướng dẫn thực hiện chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi đã quy định: Các bệnh viện đa khoa, bệnh viện chuyên khoa (trừ bệnh viện chuyên khoa Nhi), bệnh viện y học cổ truyền có quy mô từ 50 giường bệnh kế hoạch trở lên phải bố trí giường bệnh điều trị nội trú và tổ chức buồng khám bệnh riêng cho người cao tuổi tại khoa khám bệnh. Đồng thời căn cứ vào nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh của người cao tuổi, khuyến khích các bệnh viện thành lập khoa Lão khoa khi có đủ điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế và nhân lực.

9. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế quan tâm hơn nữa đến chính sách y tế biển đảo, đặc biệt là chính sách tăng cường bác sỹ, đầu tư trang thiết bị, công trình y tế đối với các bệnh viện tại huyện đảo xa đất liền, để kịp thời cấp cứu cho người bệnh.

Trả lời:

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 317/QĐ-TTg ngày 07/02/2013 phê duyệt Đề án “Phát triển y tế biển, đảo Việt Nam đến năm 2020”. Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã phối hợp với các Bộ ngành, địa phương thực hiện một số chính sách, đầu tư cho y tế biển, đảo, cụ thể như:

-Thực hiện kế hoạch hoá gia đình, phát triển dân số khu vực biển đảo theo đề án 52.

- Bộ Y tế đã phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam chỉ đạo các địa phương triển khai thực hiện chính sách Bảo hiểm y tế cho nhân dân vùng biển, đảo. Theo báo cáo nhanh của các địa phương đến nay đã cấp được gần 100 nghìn thẻ cho các đối tượng cư dân trên các đảo. Chỉ đạo cấp 100 % bảo hiểm y tế cho nhân dân trên đảo và ngư dân làm nhiệm vụ đánh bắt xa bờ; chỉ đạo các cơ sở y tế bảo đảm khám, chữa bệnh và cấp cứu cho nhân dân trên biển.

- Chỉ đạo ban quân dân y các tỉnh ven biển kiện toàn tổ chức các trung tâm y tế quân dân y tại các huyện đảo để tập trung nhân lực, cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh cấp cứu cho nhân dân trên đảo; Đề xuất Chính phủ đầu tư xây dựng các Trung tâm y tế huyện đảo, trước mắt là Trung tâm y tế quân dân y huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) và Bạch Long Vỹ (Hải Phòng) giai đoạn 2017- 2020;

- Bộ Y tế đã đầu tư hệ thống Telemedicine kết nối trung tâm y tế quân dân y huyện đảo Bạch Long Vỹ với Bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng và Viện Y học biển để chỉ đạo, hỗ trợ chuyên môn cho Trung tâm y tế huyện đảo Bạch Long Vỹ. Giai đoạn tới sẽ đầu tư kết nối các trung tâm y tế quân dân y các huyện đảo còn lại với các bệnh viện Trung ương nhằm đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh cho khu vực biển đảo. Kết nối giữa các tàu cá đánh bắt xa bờ với các trung tâm tư vấn, hỗ trợ cấp cứu từ xa qua hệ thống Radio HF và các đài duyên hải nhằm tư vấn, hỗ trợ cấp cứu từ xa cho ngư dân đánh bắt xa bờ.

- Chỉ đạo Viện Y học biển và đại học y dược Hải phòng đào tạo cho sinh viên, bác sỹ sau đại học về chuyên ngành y học biển để bảo đảm số lượng và chất lượng nguồn nhân lực y tế cho các tỉnh ven biển, đặc biệt là các huyện đảo. Giao Viện Y học biển và y tế các tỉnh ven biển tổ chức huấn luyện kỹ thuật xử trí, cấp cứu trên biển cho lực lượng thủy thủ tàu và ngư dân.

- Chỉ đạo trung tâm cấp cứu 115 của các tỉnh ven biển phối hợp với trung tâm phối hợp tìm kiếm cứu nạn hàng hải tổ chức cấp cứu, vận chuyển bệnh nhân trên biển; xác định chế độ, chính sách đối với người tham gia cấp cứu, vận chuyển trên biển. Trước mắt Bộ Y tế đề xuất đầu tư Trung tâm y tế 115 Đà Nẵng để nâng cao chất lượng phối hợp với Trung tâm phối hợp tìm kiếm, cứu nạn hàng hải khu vực 2 bảo đảm cấp cứu, vận chuyên bệnh nhân khu vực miền Trung và quần đảo Trường Sa. Phối hợp với Bộ Quốc phòng tổ chức vận chuyển cấp cứu người bị thương, bị bệnh trên các vùng biển, đảo.

- Hợp tác với Hoa kỳ xây dựng trung tâm mô phỏng cấp cứu, điều trị trên biển để đào tạo giảng viên cho một số trường đại học y, các tổ cấp cứu ven biển về kiến thức, kỹ thuật cấp cứu trên khu vực biển đảo.

10. Cử tri thành phố kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế tăng nguồn kinh phí, bố trí nguồn nhân lực xây dựng, nâng cấp Bệnh viện huyện Cát Hải (hiện phục vụ khoảng gần 40.000 dân trên đảo và lượng lớn khách du lịch thường xuyên cùng với ngư dân các tỉnh lân cận đang khai thác hải sản tại khu vực.

Trả lời:

Bệnh viện huyện Cát Hải là bệnh viện thuộc phạm vi quản lý của thành phố Hải phòng. Việc đầu tư, bố trí nguồn kinh phí, nguồn nhân lực xây dựng, nâng cấp Bệnh viện huyện Cát Hải sẽ được thực hiện theo  Quyết định 317/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Phát triển y tế biển, đảo Việt Nam đến năm 2020”. Đề nghị cử tri có ý kiến để Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân thành phố Hải phòng xem xét ưu tiên sử dụng ngân sách địa phương để đầu tư cho bệnh viện.

11. Cử tri tỉnh Khánh Hòa kiến nghị: Cử tri phản ánh, việc tăng viện phí hiện nay không đi đôi với việc tăng cường đầu tư cơ sở vật chất của ngành y tế là chưa hợp lý. Đề nghị ngành y tế có giải pháp để giải quyết tình trạng này.

Trả lời:

Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã đề ra mục tiêu cải cách tài chính công, trong đó có nội dung phải chuyển đổi cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp y tế theo hướng (i) giao quyền tự chủ cho các đơn vị, (ii) chuyển phần ngân sách cấp trực tiếp cho các bệnh viện sang hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) gắn với lộ trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế.

Chính vì vậy giá dịch vụ y tế cần phải tính đúng, tính đủ và thực hiện theo lộ trình quy định tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ, cụ thể: đến năm 2016, giá tính đủ chi phí trực tiếp và tiền lương, đến năm 2018 tính đủ chi phí trực tiếp, tiền lương, chi phí quản lý và đến năm 2020, giá tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định. Như vậy, hiện nay giá viện phí chưa bao gồm chi phí khấu hao tài sản cố định và dự phòng cho phát triển, cho nên chưa thể trích phần kinh phí từ giá viện phí để đầu tư cơ sở vật chất của các cơ sở y tế. Việc đưa hai cấu thành này vào giá viện phí phải được thực hiện theo lộ trình để tránh gây xáo trộn lớn đến đời sống của người dân.

Để có nguồn đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các cơ sở y tế, trong những năm vừa qua, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt một số Chương trình, Đề án đầu tư từ các nguồn vốn NSNN, TPCP, ODA,...(Đề án 47, Đề án 930, Đề án 362, Đề án 317, chương trình mục tiêu quốc gia y tế dân số, Đề án 125, các dự án ODA hỗ trợ y tế địa phương,..) để xây dựng mới, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế cho các cơ sở y tế từ tuyến trung ương, tuyến tỉnh, tuyến huyện nhằm nâng cao năng lực khám, chữa bệnh cho cả hệ thống, dần dần đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Triển khai nhiều giải pháp để thực hiện đề án giảm tải bệnh viện theo Quyết định 92/QĐ-TTg của Thủ tướng, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới, nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và tay nghề cho đội ngũ thày thuốc, nhân viên y tế. Mặt khác, khi thực hiện điều chỉnh giá, Bộ Y tế cũng đã có văn bản chỉ đạo các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải dành tối thiểu 5% (3% đối với bệnh viện hạng III, IV) số thu từ dịch vụ khám bệnh, dịch vụ ngày giường điều trị để sửa chữa, nâng cấp, cải tạo, mở rộng khu vực khám bệnh và mua bổ sung thiết bị và các điều kiện phục vụ người bệnh, nâng cao chất lượng dịch vụ.

Trong giai đoạn tới, Bộ Y tế tiếp tục trình Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ triển khai tiếp các Đề án, chương trình, dự án đầu tư từ nguồn NSNN, TPCP, ODA nhằm tiếp tục tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng nhất là trang thiết bị y tế hiện đại để phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh của người dân trong thời gian tới.

12. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Việc các bệnh viện ngoài công lập tham gia khám, chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế đã góp phần giảm tải cho bệnh viện công, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi khám, chữa bệnh. Cử tri đề nghị Bộ Y tế tiếp tục có những chính sách phù hợp, thu hút phát triển mạng lưới y tế tư nhân. Đồng thời tăng cường công tác quản lý nhà nước, tạo sự cạnh tranh giữa khu vực công và tư nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, góp phần giảm tải khu vực bệnh viện công và tạo điều kiện thuận lợi trong chăm sóc sức khỏe cho người dân.

Trả lời:

1. Về kiến nghị tiếp tục có những chính sách phù hợp, thu hút phát triển mạng lưới y tế tư nhân

Trong thời gian vừa qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách để khuyến khích việc phát triển các cơ sở y tế tư nhân, cụ thể như:

- Các chính sách ưu đãi về đất, vốn, thuế để phát triển các cơ sở y tế ngoài công lập quy định tại Nghị định 69 của Chính phủ;

- Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) trong đó có đầu tư phát triển hạ tầng trong lĩnh vực y tế.

- Gần đây nhất, trước tình hình một số cơ sở y tế ngoài công lập hoạt động có khó khăn do thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao; Bộ Y tế đã trình Chính phủ ban hành Nghị quyết số 93/NQ-CP về một số cơ chế, chính sách phát triển y tế, trong đó đã cho phép các bệnh viện công, trường đại học y dược công lập được hợp tác đầu tư với nhà đầu tư để xây dựng các bệnh viện mới, được cử người lao động sang làm việc tại các bệnh viện tư để khuyến khích phát triển các bệnh viện tư nhân, phục vụ tốt nhất nhu cầu chăm sóc sức khỏe người dân trên địa bàn.

2. Về kiến nghị tăng cường công tác quản lý nhà nước, tạo sự cạnh tranh giữa bệnh viện khu vực công và tư

Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân đã được cấp giấy phép hoạt động, nếu có đủ các điều kiện tham gia KCB bảo hiểm y tế đều được ký hợp đồng để khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Hiện nay các bệnh viện tư nhân hạng 3 đều được thực hiện thông tuyến để KCB bảo hiểm y tế góp phần giảm tải cho các bệnh viện công lập trên địa bàn. 

13. Cử tri các tỉnh An Giang, Bến Tre, Đà Nẵng, Đắk Lắk, Đồng Nai, Đồng Tháp, Hà Nam, Hà Nội, Khánh Hòa, Nam Định,  Lâm Đồng, Long An, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Tiền Giang, TP. Hồ Chí Minh, Vĩnh Long kiến nghị: Cử tri đề nghị tiếp tục nâng cao vấn đề y đức cũng như nâng cao hơn nữa chất lượng khám, chữa bệnh, nhất là khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế, sao cho đi đôi với việc tăng viện phí; cải cách thủ tục khám, chữa bệnh để rút ngắn thời gian khám, chữa bệnh; khuyến khích các cơ sở y tế tổ chức khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế vào ngày cuối tuần; mở rộng danh mục thuốc và đưa các thiết bị kỹ thuật cao vào khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế; … nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của người khám, chữa bệnh ().

 Cử tri các tỉnh Quảng Nam, TP. Hồ Chí Minh. Đề nghị Bộ Y tế chú trọng đến việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức cho đội ngũ y bác sỹ.

Trả lời:

I. Vấn đề nâng cao y đức

Bộ Y tế là cơ quan quản lý nhà nước về y tế. Từ khi được thành lập đến nay, căn cứ chức năng, nhiệm vụ được Chính phủ giao, Bộ Y tế đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp thường xuyên nâng cao đạo đức nghề nghiệp (gọi tắt là Y đức) cho toàn thể công chức, viên chức, người lao động trong ngành Y tế.

1. Ban hành các văn bản chỉ đạo

Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo như: Quy định về 12 điều y đức, Thông tư số 07/2014/TT-BYT quy định về Quy tắc ứng xử của công chức, viên chức, người lao động làm việc tại các cơ sở y tế; đặc biệt, ngày 04/6/2015, Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Quyết định số 2151/QĐ-BYT phê duyệt Kế hoạch “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh”.

2. Triển khai thực hiện

Thực hiện Quyết định số 2151/QĐ-BYT và Quyết định số 3638/KH-BYT ngày 15/7/2016 về việc phê duyệt Kế hoạch xây dựng cơ sở y tế “Xanh - Sạch - Đẹp”, Bộ Y tế đã quyết liệt triển khai:

- Kiện toàn Ban chỉ đạo các cấp, tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch năm 2016.

- Tiếp tục triển khai thực hiện các nội dung theo Quyết định số 2151/QĐ-BYT ngày 04/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế:

+ Tập huấn nâng cao kỹ năng giao tiếp, ứng xử cho cán bộ y tế: Đây là nội dung quan trọng. Bộ Y tế tiếp tục tập huấn, hướng dẫn cho các địa phương, đơn vị (được 3 lớp tại 3 miền với gần 1000 báo cáo viên) sau đó các đơn vị về sẽ tự xây dựng kế hoạch, tổ chức tập huấn cho viên chức, người lao động thuộc quyền quản lý.

+ Triển khai nhiệm vụ công tác xã hội trong bệnh viện.

+ Quy định trang phục của cán bộ y tế.

+ Tiếp tục thực hiện “đường dây nóng” theo Chỉ thị số 09/CT-BYT.

+ Duy trì, củng cố hòm thư góp ý.

+ Triển khai Đề án “Tiếp sức người bệnh trong bệnh viện”.

+ Xây dựng phong cách, thái độ phục vụ văn minh, thân thiện, không có tiêu cực.

- Tăng cường công tác thông tin, truyền thông.

- Tiếp tục tổ chức ký cam kết, giám sát việc thực hiện cam kết.

- Công tác kiểm tra, thanh tra việc tổ chức triển khai thực hiện; Hướng dẫn quản lý chặt chẽ các dịch vụ ngoài bệnh viện; Xây dựng bệnh viện “Xanh - Sạch - Đẹp”.

- Công tác khen thưởng, xử lý vi phạm được thực hiện nghiêm minh.

- Công tác thông tin, báo cáo, tổ chức sơ kết, tổng kết.

3. Triển khai thực hiện tại các địa phương

Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Y tế, tất cả các tỉnh/Thành phố trực thuộc Trung ương đều thành lập Ban Chỉ đạo, tổ chức thực hiện. 100% các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế tổ chức ký cam kết từ viên chức đến lãnh đạo khoa, phòng và giám đốc bệnh viện với cơ quan quản lý cấp trên. Đến nay, Kế hoạch “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh” được đa số cán bộ y tế nhất trí triển khai thực hiện; được người bệnh, gia đình người bệnh, người dân quan tâm, ủng hộ; bước đầu đạt kết quả tốt.

Ngày 19/7/2016, Bộ Y tế tổ chức Hội nghị trực tuyến sơ kết 01 năm thực hiện Kế hoạch “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế” và triển khai cơ sở y tế “Xanh - Sạch - Đẹp” hướng tới sự hài lòng của người bệnh, với 715 điểm cầu trong cả nước.

Cuối năm 2016, Viện Chiến lược và Chính sách y tế đã tổ chức đánh giá độc lập tại 22 bệnh viện trong toàn quốc. Kết quả cho thấy, người dân hài lòng về thời gian khám bệnh chung là 81,8%, tại tuyến tỉnh là 87,3%, tuyến Trung ương là 77,9% và tuyến huyện là 77,5%.

4. Các hoạt động trong thời gian tới

Để tiếp tục thực hiện tốt các nội dung trong Kế hoạch “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh”, Bộ Y tế tiếp tục đẩy mạnh việc nâng cao Y đức của cán bộ y tế, tập trung vào các nội dung:

- Tiếp tục hướng dẫn, tổ chức tập huấn kỹ năng giao tiếp ứng xử cho toàn bộ cán bộ y tế, trong đó có cả cán bộ bảo vệ, hành chính, thu ngân…

- Tăng cường kiểm tra theo kế hoạch và kiểm tra đột xuất các địa phương, đơn vị về nội dung đổi mới phong cách, thái độ phục vục xủa cán bộ y tế, xây dựng cơ sở y tế “Xanh - Sạch - Đẹp” hướng tới sự hài lòng của người bệnh theo bộ Tiêu chí chấm điểm mới.

- Tiếp tục tăng cường đầu tư hạ tầng cơ sở, vật chất, trang thiết bị y tế; đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, cải tiến lề lối, tác phong làm việc cho phù hợp.

Đề nghị cử tri trong cả nước phối hợp với ngành Y tế, tiếp tục tăng cường tuyên truyền đối với cán bộ y tế và nhân dân về chủ trương đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế để người dân cảm thông với những khó khăn của ngành Y tế, chia sẻ những khó khăn, vất vả của cán bộ y tế.

II. Về kiến nghị nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh BHYT, sao cho đi đôi với việc tăng viện phí

Bộ Y tế đã và đang triển khai đồng bộ các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng khám bệnh chữa bệnh, tăng tiếp cận dịch vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn sự hài lòng của người bệnh có BHYT, cụ thể:

- Ban hành Quyết định 2151/QĐ-BYT ngày 4/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh”, tổ chức triển khai rộng rãi tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; Thông tư số 43/2015/TT-BYT ngày 26/11/2015 quy định về nhiệm vụ và hình thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác xã hội của bệnh viện để hỗ trợ, tư vấn giải quyết các vấn đề về công tác xã hội cho người bệnh và người nhà người bệnh trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh

- Triển khai Đề án giảm quá tải bệnh viện, Đề án 1816, Đề án bệnh viện vệ tinh, Đề án bác sỹ gia đình...

- Ban hành Bộ Tiêu chí đánh giá về chất lượng bệnh viện và thực hiện cải cách thủ tục hành chính, cải tiến quy trình khám chữa bệnh, theo phương châm: Rút ngắn thời gian chờ đợi; Giảm bớt các thủ tục không cần thiết; Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh; Tạo sự hài lòng cho người bệnh. Bước đầu giải quyết tình trạng quá tải bệnh viện, đáp ứng yêu cầu của người bệnh góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh BHYT, bảo đảm quyền lợi của người tham gia BHYT.

- Ban hành Quyết định số 1313/QĐ-BYT ngày 22/4/2013 hướng dẫn quy trình khám bệnh tại bệnh viện với mục đích nhằm: (1) Thống nhất quy trình khám bệnh của các bệnh viện; (2) Hướng dẫn các bệnh viện thực hiện các giải pháp cải tiến quy trình và thủ tục trong khám bệnh, rút ngắn thời gian chờ, tránh gây phiền hà và tăng sự hài lòng của người bệnh, đặc biệt đối với người bệnh bảo hiểm y tế khi đến khám tại bệnh viện; (3) Giúp người bệnh biết rõ quy trình khám bệnh để cùng phối hợp với bệnh viện trong quá trình khám bệnh. Đến nay, thì 100% các cơ sở khám chữa bệnh đã tổ chức triển khai thực hiện cải tiến quy trình khám bệnh,  thời gian khám bệnh trung bình giảm rõ rệt.

III. Về kiến nghị khuyến khích các cơ sở y tế tổ chức khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế vào ngày cuối tuần

Theo Thông tư liên tịch số 16/2015/TTLT-BYT-BTC Sửa đổi Khoản 5 Điều 13 Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 24 tháng 11 năm 2014 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính thì trường hợp cơ sở y tế có tổ chức khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế vào ngày nghỉ, ngày lễ phải thông báo cho tổ chức bảo hiểm xã hội để bổ sung vào hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh trước khi thực hiện. Người có thẻ bảo hiểm y tế đến khám bệnh, chữa bệnh được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán trong phạm vi quyền lợi và mức hưởng bảo hiểm y tế. Cơ sở y tế có trách nhiệm bảo đảm về nhân lực, điều kiện chuyên môn, phải công khai những khoản chi phí mà người bệnh phải chi trả ngoài phạm vi được hưởng của người bệnh tham gia bảo hiểm y tế và phải thông báo trước cho người bệnh, người bệnh phải tự chi trả phần chi phí ngoài phạm vi quyền lợi và mức hưởng bảo hiểm y tế (nếu có). Như vậy cơ sở KCB đã được tạo điều kiên tối đa để tổ chức khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế vào ngày cuối tuần.

Hiện nay, nhiều cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã tổ chức khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế vào ngày nghỉ, ngày lễ để phục vụ để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh và bảo đảm quyền lợi của người tham gia BHYT như: Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Nhân dân Gia Định, Bệnh viện cấp cứu Trưng Vương, Bệnh viện Chỉnh hình và phục hồi chức năng TP.HCM…

IV. Về kiến nghị mở rộng danh mục thuốc và đưa các thiết bị kỹ thuật cao vào khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế

- Về quy định Danh mục thuốc thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT, ngày 17/11/2014, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 40/2014/TT-BYT ban hành và hướng dẫn thực hiện danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế và Thông tư số 05/2015/TT-BYT ngày 17/3/2015 ban hành và hướng dẫn danh mục thuốc động y, thuốc từ dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT.

Về danh mục thuốc tân dược: Bộ Y tế có thể khẳng định Thông tư số 40/2014/TT-BYT ban hành đã đáp ứng được nhu cầu điều trị, bảo đảm được quyền lợi cho người bệnh có thẻ BHYT, đồng thời phù hợp với khả năng chi trả của quỹ BHYT. Danh mục thuốc tân dược gồm 845 hoạt chất, 1064 thuốc với đầy đủ các chuyên khoa.Việt Nam được đánh giá là một trong số ít các nước trên thế giới có  danh mục thuốc tương đối đầy đủ, toàn diện và mở rộng so với mức phí đóng BHYT.

Về danh mục thuốc y học cổ truyền: Thông tư số 05/2015/TT-BYT ban hành danh mục vị thuốc, chế phẩm thuốc y học cổ truyền thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT ban hành ngày 17/11/2015 hiện có 229 chế phẩm – tăng 102 chế phẩm, và 349 vị thuốc – tăng 49 vị thuốc so với Thông tư 12/2010/TT-BYT ngày 29/4/2010, được áp dụng cho tất cả các cơ sở KCB, bao gồm bệnh viện YHCT, bệnh viện có khoa YHCT, kể cả trạm y tế xã có đủ điều kiện KCB BHYT theo quy định. Danh mục thuốc BHYT ban hành trong các Thông tư số 40/2014/TT-BYT và Thông tư số 05/2015/TT-BYT được ghi dưới dạng tên hoạt chất/thành phần, không ghi hàm lượng,dạng bào chế và tên thương mại. Như vậy, việc lựa chọn thuốc thành phẩm được Quỹ BHYT thanh toán tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không bị giới hạn bởi chủng loại thuốc với giá rẻ hay đắt, thuốc nội hay thuốc ngoại. Căn cứ vào mô hình bệnh tật, nhu cầu khám chữa bệnh và khả năng chi trả của Quỹ BHYT, cơ sở khám chữa bệnh xây dựng danh mục thuốc sử dụng tại đơn vị để mua sắm lựa chọn thuốc thành phẩm phù hợp.

14. Cử tri tỉnh Đà Nẵng, Hà Tĩnh, Lạng Sơn, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long kiến nghị: Cử tri đề nghị khi người dân đã có thẻ bảo hiểm y tế thì việc khám, chữa bệnh ở đâu là do nhu cầu của người dân, không nên quy định như hiện nay là phải theo tuyến, gây khó khăn cho người dân có nhu cầu muốn tiếp cận với việc khám, chữa bệnh ở các bệnh viện tuyến trên.

Trả lời:

Theo quy định hiện hành, khi tham gia BHYT thì người dân phải đăng ký nơi khám chữa bệnh ban đầu và khám đúng nơi đã đăng ký, trừ trường hợp cấp cứu hoặc đi công tác. Việc quyđịnh nơi khám chữa bệnh ban đầu đối với người tham gia BHYT là nhằm bảo đảm khả năng cung cấp dịch vụ của cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn, để người dân được tiếp cận dịch vụ thuận tiện nhất, giảm bớt khó khăn do phải đi lại của người đi khám chữa bệnh mà vẫn đạt hiệu quả chữa bệnh, đồng thời tránh tình trạng có cơ sở y tế có quá đông người bệnh, có cơ sở lại quá ít gây mất cân đối. Việc phân theo tuyến còn để phát huy hiệu quả nguồn lực của tuyến dưới, đồng thời giảm quá tải tuyến trên. Theo số liệu thống kê, nhiều bệnh có thể điều trị hiệu quả ở tuyến dưới, không nhất thiết phải lên tuyến trên khám chữa bệnh.

Mặc dù quy định người có thẻ BHYT phải đăng ký nơi khám chữa bệnh ban đầu, nhưng  người tham gia BHYT cũng được quyền khám bệnh, chữa bệnh không phụ thuộc vào tuyến hoặc nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu trong một số trường hợp, được quy định tại các khoản 3, 4, 5, 6 Điều 22 Luật BHYT hiện hành, theo lộ trình như sau:

- Từ năm 2015: Người tham gia BHYT khi khám chữa bệnh không đúng tuyến tại các cơ sở khám chữa bệnh tuyến huyện được quỹ BHYT thanh toán 100% chi phí theo phạm vi được hưởng và mức hưởng tùy theo đối tượng tham gia BHYT.

- Từ năm 2021: Người tham gia BHYT khi điều trị nội trú không đúng tuyến tại các cơ sở khám chữa bệnh tuyến tỉnh được quỹ BHYT thanh toán 100% chi phí theo phạm vi được hưởng và mức hưởng tùy theo đối tượng tham gia BHYT.

15. Cử tri tỉnh An Giang, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bến Tre, Đồng Tháp, Quảng Nam, Tiền Giang, Vĩnh Long kiến nghị: Cử tri cho rằng, việc khám, chữa bệnh cho người dân, nhất là người có thẻ bảo hiểm y tế thường không chu đáo, tận tình; việc chuyển viện từ tuyến dưới lên tuyến trên khi bị bệnh nặng thường bị bệnh viện tuyến dưới gây khó khăn; việc chuẩn đoán bệnh nhiều khi chưa chính xác, không kịp thời cấp cứu các trường hợp nguy hiểm đến tính mạng, thậm chí còn tắc trách trong khi phẫu thuật,... Đề nghị ngành y tế rà soát, kiểm tra, chấn chỉnh tình trạng này.

Trả lời:

1. Về việc khám chữa bệnh (KCB) cho người có thẻ bảo hiểm y tế

Để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người bệnh nói chung, đặc biệt cho người có thẻ bảo hiểm y tế, vừa qua Bộ trưởng Bộ Y tế đã yêu cầu toàn ngành Y tế đổi mới toàn diện hoạt động y tế, đặc biệt là về phong cách, thái độ phục vụ của nhân viên y tế đối với người bệnh, hướng tới sự hài lòng của người bệnh. Toàn ngành Y tế đã tích cực triển khai Quyết định số 2151/QĐ-BYT ngày 04/6/2015 về việc phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh”. Theo đó, ở các cơ sở khám chữa bệnh, cán bộ y tế ký cam kết thực hiện tốt Quyết định trên. Kết quả sau gần 2 năm thực hiện, nhận thức, thái độ, phong cách phục vụ người bệnh của cán bộ y tế đã có bước thay đổi được người dân và dư luận xã hội ghi nhận đánh giá cao. Các cán bộ y tế đã tích cực rèn luyện kỹ năng giao tiếp, ứng xử, nâng cao tinh thần, thái độ phục vụ, củng cố niềm tin và sự hài lòng của người bệnh; tạo điều kiện tốt, thuận lợi để giúp người dân tiếp cận các dịch vụ y tế; xây dựng hình ảnh đẹp của người cán bộ y tế Việt Nam.

Bộ trưởng Bộ Y tế cũng đã ban hành Chỉ thị số 09/CT-BYT ngày 22/11/2013 về việc tăng cường và xử lý ý kiến phản ánh của người dân về chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh thông qua đường dây nóng.Trong năm 2016, thông qua ý kiến phản ánh của người dân đến đường dây nóng, Lãnh đạo các bệnh viện đã kiểm tra và xử lý nghiêm khắc các cán bộ vi phạm trong quá trình phục vụ người bệnh. Cụ thể, khiển trách 213 trường hợp; điều chuyển sang bộ phận khác 08 trường hợp; cho nghỉ việc 13 trường hợp; cắt thi đua 78 trường hợp; cải thiện cơ sở vật chất 196 trường hợp; cải tiến quy trình khám chữa bệnh 573 trường hợp; khen thưởng 63 trường hợp và các hình thức xử lý khác là 4.101 trường hợp. Ngoài ra, qua các hộp thư góp ý, phản ánh trực tiếp của nhân dân, thăm dò ý kiến đánh giá sự hài lòng của người bệnh, hệ thống thông tin đại chúng và các kênh thông tin khác, rất nhiều cơ sở y tế đã xử lý kịp thời các trường hợp có tinh thần thái độ phục vụ thiếu tôn trọng, không tận tình trong KCB để chấn chỉnh, kiên quyết xử lý kỷ luật nếu vi phạm quy định trong quá trình KCB cho người dân.

2. Về việc chuyển viện từ tuyến dưới lên tuyến trên

Theo quy định về chuyển tuyến, các trường hợp bệnh nặng nếu vượt quá khả năng chuyên môn của cơ sở KCB thì cơ sở KCB phải chuyển người bệnh lên cơ sở KCB tuyến trên để kịp thời khám chữa bệnh cho người bệnh.

Trong trường hợp người bệnh đề nghị được chuyển lên tuyến trên, cơ sở KCB thấy việc điều trị bệnh không vượt khả năng chuyên môn của cơ sở, không cần thiết chuyển người bệnh lên tuyến trên thì cán bộ y tế phải giải thích rõ cho người bệnh hoặc người nhà bệnh nhân hiểu.

Trường hợp người bệnh sau khi đã được nghe giải thích nhưng vẫn có nguyện vọng chuyển lên tuyến trên điều trị thì cơ sở khám chữa bệnh phải cho người bệnh chuyển tuyến, và giải thích thêm cho người bệnh về các thủ tục chuyển tuyến và chính sách BHYT họ được hưởng khi chuyển tuyến, trường hợp này là “khám chữa bệnh trái tuyến”, người bệnh chỉ được BHYT thanh toán một phần chi phí khám chữa bệnh, phần còn lại người bệnh  phải trả do khám chữa bệnh trái tuyến.

3. Để nâng cao năng lực chẩn đoán và điều trị ở các cơ sở y tế, giảm tới mức thấp nhất những trường hợp chẩn đoán không chính xác, không kịp thời, gây nguy hiểm cho người bệnh, Bộ Y tế đã triển khai nhiều giải pháp, như cử cán bộ tuyến trên luân phiên về tuyến dưới giúp đỡ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, mở các khóa đào tạo về chuyên môn, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị cho cơ sở y tế,…; đồng thời tăng cường các đoàn kiểm tra định kỳ, đột xuất đối với công tác khám chữa bệnh ở các cơ sở y tế để kịp thời chấn chỉnh các trường hợp vi phạm về chuyên môn. Tuy nhiên, trong thực tế, có nhiều trường hợp tai biến là bất khả kháng, mặc dù cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã cố gắng hết sức. Ngoài ra, do điều kiện về trang thiết bị y tế và nhân lực còn hạn chế nên việc chẩn đoán chưa chính xác là khó tránh khỏi. Bộ Y tế yêu cầu các cơ sở y tế khi gặp phải những trường hợp bệnh vượt quá khả năng chuyên môn của y bác sỹ thì phải nhanh chóng chuyển bệnh nhân lên tuyến trên hoặc tổ chức hội chẩn liên viện.

16. Cử tri tỉnh Đồng Nai, Hưng Yên, Quảng Bình kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế ban hành các chính sách, cơ chế luân chuyển, khuyến khích, tăng cường y bác sĩ về làm việc tại các bệnh viện tuyến cơ sở, để phục vụ nhân dân được tốt hơn và giảm quá tải trong việc khám, chữa bệnh cho bệnh viện tuyến trung ương.

Cử tri tỉnh Lai Châu kiến nghị: Việc thực hiện Đề án “Cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh” theo Quyết định số 1816/QĐ-BYT ngày 26/5/2008 của Bộ Y tế trên địa bàn tỉnh Lai Châu trong những năm qua đã góp phần nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện tuyến dưới, nâng cao tay nghề cho y bác sĩ tuyến dưới và giảm tình trạng quá tải cho các bệnh viện tuyến trên, … Tuy nhiên, việc thực hiện Đề án trong thời gian gần đây bị gián đoạn (năm 2015 có 07 bệnh viện ở Trung ương (12 đợt) cử bác sĩ lên hỗ trợ, đào tạo, chuyển giao kỹ thuật cho tỉnh Lai Châu, mỗi đợt trung bình 1,5 ngày; 6 tháng đầu năm 2016 chưa có đợt cử cán bộ chuyên môn luân phiên về hỗ trợ). Đề nghị Bộ Y tế tiếp tục quan tâm, tăng cường cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến tỉnh, nhằm góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu của Đề án theo Quyết định 1816/QĐ-BYT .

Trả lời:

Hiện nay chính sách luân chuyển cán bộ từ tuyến trên về tuyến dưới để hỗ trợ kỹ thuật và nâng cao năng lực cho y tế cơ sở đã được Chính phủ luật hóa bởi Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Như vậy, bên cạnh việc thực hiện Quyết định số 1816/QĐ-BYT ngày 26/5/2008 của Bộ Y tế về việc cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ Bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, các cán bộ y tế tuyến trên phải thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn để giúp đỡ tuyến dưới. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đã ban hành kế hoạch và thực hiện việc luân phiên công tác có thời hạn đối với cán bộ y tế thực hiện nghĩa vụ xã hội ở vùng khó khăn, vùng đặc biệt khó khăn và cơ sở y tế nông thôn tương đối hiệu quả. Ngoài ra, Bộ Y tế còn triển khai chính sách khuyến khích bác sỹ trẻ tình nguyện về công tác có thời hạn ở bệnh viện thuộc các vùng miền núi, vùng khó khăn, góp phần nâng cao năng lực của các cơ sở y tế tuyến dưới.

17. Cử tri tỉnh Bến Tre, Hà Nội kiến nghị: Cử tri phản ánh, trường hợp bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo có thẻ bảo hiểm y tế đang điều trị tại tuyến trên, khi thẻ bảo hiểm hết hạn hoặc trong trường hợp tái khám, điều trị theo chỉ định, người bệnh phải quay lại bệnh viện tuyến dưới thực hiện thủ tục chuyển viện, gây phiền hà, bức xúc cho người bệnh cũng như người nhà bệnh nhân. Đề nghị ngành chức năng quy định theo hướng trong trường hợp người bệnh mắc bệnh hiểm nghèo đang điều trị tại bệnh viện tuyến trên hoặc tái khám, điều trị thì không phải quay về bệnh viện tuyến dưới thực hiện thủ tục chuyển viện .

Trả lời:

Theo Khoản d Mục 1 Điều 12 Thông tư 41/2015/TT-BYT ngày 16/11/2015 của Bộ Y tế quy định đăng ký khám chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu và chuyển tuyến khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, thì “Người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế mắc các bệnh, nhóm bệnh và các trường hợp được sử dụng Giấy chuyển tuyến quy định tại Phụ lục số 01 ban hành kèm theo Thông tư này thì Giấy chuyển tuyến có giá trị sử dụng đến hết ngày 31 tháng 12 năm dương lịch đó. Trường hợp đến hết ngày 31 tháng 12 của năm đó mà người bệnh vẫn đang điều trị nội trú tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thì Giấy chuyển tuyến có giá trị sử dụng đến hết đợt điều trị nội trú đó.”. Việc khám lại (tái khám) được thực hiện khi người bệnh có Giấy hẹn khám lại và mỗi Giấy hẹn khám lại chỉ sử dụng 01 lần theo thời gian ghi trong Giấy hẹn khám lại của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Như vậy đối với bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo có thẻ bảo hiểm y tế, nếu đang điều trị thì sẽ được điều trị cho đến hết đợt điều trị nội trú, và được tái khám theo giấy hẹn.

18. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri phản ánh, thực tế hiện nay bệnh nhân đến khám, điều trị tại các bệnh viện phải làm thủ tục tạm ứng tiền viện phí trước, mới được nhập viện điều trị, nên đã xảy ra nhiều trường hợp bệnh nhân đến cấp cứu chờ làm thủ tục theo quy định của bệnh viện thì đã tử vong, do chưa kịp cấp cứu, … Đề nghị Bộ Y tế chỉ đạo thống nhất khi bệnh nhân cấp cứu đến bệnh viện thì y, bác sỹ phải tiến hành khám, điều trị cứu bệnh nhân ngay, sau khi ổn định mới tiến hành thực hiện các thủ tục cần thiết để nhập viện, đóng tiền viện phí.

Trả lời:

Ngày 29/3/2016, Bộ Y tế có Chỉ thị số 06/CT-BYT về việc tăng cường bảo đảm chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh khi thực hiện điều chỉnh, thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc, trong đó tại Điều 5 mục II. có yêu cầu Giám đốc các bệnh viện, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không thu tiền tạm ứng đối với người bệnh bảo hiểm y tế khi khám bệnh, không thu thêm các chi phí đã kết cấu trong giá của dịch vụ, trừ các chi phí chưa tính vào giá dịch vụ và phần đồng chi trả của người bệnh có bảo hiểm y tế theo quy định hoặc phần chênh lệch giữa giá thanh toán với cơ quan Bảo hiểm Xã hội và giá khám bệnh, chữa bệnh theo yêu cầu”.

Còn đối với các trường hợp cấp cứu thì trong Quy chế bệnh viện, Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 và nhiều văn bản liên quan khác đều yêu cầu các cơ sở y tế phải ‘Ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh đối với trường hợp cấp cứu, trẻ em dưới 6 tuổi, người khuyết tật nặng, người từ đủ 80 tuổi trở lên, người có công với cách mạng, phụ nữ có thai’ – trích Điều 3. Nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa bệnh Luật khám bệnh, chữa bệnh.

19. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Hiện nay, còn có tình trạng lợi dụng khám bệnh theo thẻ bảo hiểm y tế để lấy thuốc bán ra ngoài thị trường. Đây là những nguyên nhân gây bức xúc cho người bệnh, thâm hụt quỹ bảo hiểm y tế, đề nghị có biện pháp khắc phục, xử lý vấn đề này trong thời gian tới.

Trả lời:

Theo quy định của Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế, các hành vi vi phạm liên quan đến bảo hiểm y tế đều bị xử phạt hành chính, với các mức phạt khá cao. Đồng thời để chấn chỉnh các hành vi lạm dụng thẻ bảo hiểm y tế, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ra Chỉ thị số 06/CT-BYT ngày 13/6/2014 về việcTăng cường công tác thanh tra, kiểm tra phòng chống hành vi gian lận, trục lợi quỹ bảo hiểm y tế tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam tổ chức nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách pháp luật về bảo hiểm y tế (BHYT), đã kịp thời chấn chỉnh các trường hợp lạm dụng và đã chuyển cơ quan pháp luật khởi tố đối với một số trường hợp sử dụng thẻ BHYT của người khác lấy thuốc để bán.

Để hạn chế tình trạng lạm dụng, trục lợi Quỹ BHYT, Bộ Y tế đã phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam xây dựng hệ thống Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý khám chữa bệnh và thanh toán BHYT chi phí khám chữa bệnh BHYT, hệ thống này sẽ phát hiện những cơ sở khám chữa bệnh, người bệnh BHYT có tần suất khám bệnh, chữa bệnh cao; sử dụng thuốc, dịch vụ kỹ thuật y tế không phù hợp, không đúng với bệnh tật, để từ đó kịp thời xử lý các trường hợp lạm dụng thẻ BHYT để lấy thuốc không đúng quy định.

20. Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: Cử tri cho rằng, người dân khám, chữa bệnh trái tuyến chỉ được hỗ trợ mức bảo hiểm y tế thấp hơn so với khám, chữa bệnh đúng tuyến, như vậy sẽ thiệt thòi cho người khám, chữa bệnh. Đề nghị nghiên cứu, quy định trong các trường hợp bệnh nhân cấp cứu hoặc bệnh viện tuyến dưới không đủ điều kiện khám, chữa bệnh, … thì người dân khám, chữa bệnh trái tuyến vẫn được hưởng bảo hiểm y tế như khám, chữa bệnh đúng tuyến.

Trả lời:

Việc quy định phân tuyến khám chữa bệnh nhằm bảo đảm phát huy hiệu quả nguồn lực khám chữa bệnh ở các tuyến, nhất là tuyến dưới, giảm tải cho tuyến trên. Trường hợp tuyến dưới không đủ điều kiện khám chữa bệnh, như không có chuyên khoa, hoặc có chuyên khoa nhưng không đủ điều kiện để thực hiện dịch vụ kỹ thuật đối với người bệnh thì vẫn phải có giấy chuyển tuyến phù hợp. Trong trường hợp cấp cứungười bệnh có thẻ BHYT có thể đến bất kỳ cơ sở khám chữa bệnh nào vẫn được hưởng đầy đủ quyền lợi, mức hưởng như khám chữa bệnh đúng tuyến. Ngoài ra, theo quy định của Luật BHYT thì người dân tộc thiểu số và người thuộc hộ gia đình nghèo tham gia BHYT đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người tham gia BHYT đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo khi tự đi khám bệnh, chữa bệnh không đúng tuyến được Quỹ BHYT thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với bệnh viện tuyến huyện, điều trị nội trú đối với bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến Trung ương và có mức hưởng như khám chữa bệnh đúng tuyến; Từ ngày 01/01/2016, người tham gia BHYT đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu tại Trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện được quyền khám bệnh, chữa bệnh BHYT tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh có mức hưởng như khám chữa bệnh đúng tuyến.

21. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Về khám chữa bệnh: Việc thông tuyến khám chữa bệnh bảo hiểm y tế đã gây khó khăn cho công tác quản lý bệnh nhân, quản lý quỹ và mất cân đối quỹ bảo hiểm y tế (nguyên nhân là do thay đổi chính sách về khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế quy định thông tuyến huyện tăng giá dịch vụ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, khó khăn trong việc quản lý chi phí dịch vụ y tế) để khắc phục tình trạng trên:

- Đề nghị nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm y tế, Luật Bảo hiểm xã hội phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay, theo đó sớm điều chỉnh mức đóng bảo hiểm y tế phù hợp với quyền lợi người tham gia bảo hiểm y tế; ban hành phương thức thành toán theo “ gói dịch vụ” giúp kiểm soát tốt hơn chi phí dịch vụ;

- Đề nghị Bộ y tế phối hợp Bảo hiểm xã hội Việt Nam xem xét khoán quỹ bảo hiểm y tế tại các cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu cho phù hợp với thực tiễn; đồng thời có giải pháp quản lý bệnh nhân hữu hiệu đối với người bệnh bảo hiểm y tế khi thực hiện khám thông tuyến; quy định chỉ thực hiện thông tuyến huyện trên địa bàn tỉnh.

Trả lời:

Bộ Y tế đang phối hợp với Bảo hiểm Xã hội Việt Nam và các đơn vị chức năng nghiên cứu xây dựng các phương thức thanh toán để kiểm soát chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế(BHYT), đồng thời đang triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chính phủ tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong khám chữa bệnh BHYT để quản lý bệnh nhân khi khám chữa bệnh thông tuyến hiệu quả hơn.

Mức đóng BHYT được quy định cụ thể trong Luật BHYT và các văn bản hướng dẫn, được tính toán dựa vào khả năng đóng của ngân sách nhà nước và của các nhóm đối tượng, mức lương cơ sở, phạm vi quyền lợi và khả năng cân đối quỹ BHYT.

Ngày 29/10/2015, Bộ Y tế - Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh BHYT giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc, việc triển khai thực hiện Thông tư này ít nhiều đã tác động đến việc cân đối Quỹ BHYT. Để giải quyết vấn đề này, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã đề nghị Bộ Y tế, Bộ Tài chính trình Chính phủ phương án tăng tỷ lệ đóng BHYT để bảo đảm cân đối quỹ BHYT. Tuy nhiên, sau khi xem xét số liệu báo cáo quyết toán của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, lũy kế đến hết năm 2015 quỹ BHYT kết dư khoảng 43.000 tỷ đồng. Đồng thời trong điều kiện sản xuất kinh doanh hiện nay đang gặp nhiều khó khăn, nền kinh tế tuy có tăng trưởng nhưng tốc độ tăng thấp hơn so với mục tiêu đề ra thì việc đề nghị điều chỉnh mức đóng BHYT hiện nay là chưa phù hợp. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, tạm thời vẫn giữ nguyên mức đóng BHYT là 4,5% tiền lương, lương cơ sở.

Bộ Tài chính, Bộ Y tế và Bảo hiểm Xã hội Việt Nam đang phối hợp để nghiên cứu đề xuất với Chính phủ cải tiến phương thức khoán quỹ BHYT cho các cơ sở khám chữa bệnh nhằm nâng cao hiệu quả quản lý quỹ, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở khám chữa bệnh.

22. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: Cử tri đề nghị cần niêm yết công khai danh mục thuốc chữa bệnh cho trẻ em và người dân tộc.

Trả lời:

Bộ Y tế đã yêu cầu các cơ sở khám chữa bệnh niêm yết công khai danh mục thuốc chữa bệnh. Kết quả kiểm tra cho thấy, hầu hết các cơ sở khám chữa bệnh đã thực hiện nghiêm túc chỉ đạo này. Đây là danh mục thuốc dùng để chữa bệnh cho người, không phân biệt danh mục thuốc cho nhóm đối tượng cụ thể nào. Việc sử dụng thuốc được các y bác sỹ chỉ định trên cơ sở tình trạng bệnh tật và cơ địa của của người bệnh.

23. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Cử tri đề nghị tiếp tục quy định bệnh nhân sử dụng thẻ bảo hiểm y tế chỉ được khám, chữa bệnh theo tuyến vì trong điều kiện hiện nay, quy định này là phù hợp, tránh được tình trạng quá tải tại các bệnh viện lớn, bệnh viện tuyến trên. Tuy nhiên, để phù hợp với điều kiện thực tế, đề nghị cần quy định về các trường hợp ngoại lệ khi phát sinh bệnh tật, tai nạn ngoài địa phương thì không bắt buộc phải khám, chữa bệnh theo tuyến.

Trả lời:

Bộ Y tế nhất trí với ý kiến của cử tri về việc tiếp tục duy trì quy định bệnh nhân chỉ được khám, chữa bệnh theo tuyến để tránh quá tải ở các bệnh viện tuyến trên. Về quy định đối với các trường hợp phát sinh bệnh tật, tai nạn ngoài địa phương nơi cư trú thì Bộ Y tế đã có hướng dẫn cụ thể giải quyết chế độ thanh toán bảo hiểm y tế (BHYT) với nhóm đối tượng này. Cụ thể, đối với các trường hợp khám chữa bệnh khi đi công tác hoặc ở địa phương khác thì người bệnh cần khám tại các cơ sở y tế theo tuyến tương đương cơ sở khám chữa bệnh ban đầu ghi trên thẻ BHYT. Việc thực hiện quy định này để tránh việc người dân lạm dụng ra địa phương khác để khám chữa bệnh ở các tuyến cao hơn tuyến cơ sở khám chữa bệnh ban đầu như tuyến tỉnh hoặc tuyến Trung ương, gây khó kiểm soát quỹ khám chữa bệnh BHYT, trừ trường hợp cấp cứu.

24. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Cử tri bày tỏ thái độ bức xúc về chất lượng khám, chữa bệnh của Bệnh viện Đa khoa Trung ương Quảng Nam chưa thật sự tốt, nhiều trường hợp ảnh hưởng đến tính mạng của bệnh nhân. Đề nghị Bộ Y tế xem xét, kiểm tra, chấn chỉnh.

Trả lời:

Bộ Y tế sẽ kiểm tra và sẽ có thông tin lại cho cử tri.

25. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Việc khám, chữa bệnh của các bệnh viện tuyến dưới ngày càng được nâng lên, nhưng với quy định danh mục thuốc tân dược được sử dụng tại các cơ sở khám, chữa bệnh theo phân hạng bệnh viện tại Thông tư số 40/2014/TT-BYT ngày 17/11/2014 của Bộ Y tế về hướng dẫn danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế, đã làm hạn chế năng lực khám, chữa bệnh của các bệnh viện và ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế. Đề nghị Bộ Y tế sửa đổi, bổ sung Thông tư số 40/2014/TT-BYT theo hướng tăng thêm danh mục thuốc được sử dụng tại các bệnh viện tuyến dưới cho phù hợp với năng lực của từng bệnh viện.

Trả lời:

Trong những năm qua, với mục tiêu đáp ứng ngày càng đầy đủ, chất lượng hơn về nhu cầu sử dụng thuốc của người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế (BHYT), danh mục thuốc thuộc phạm vi thanh toán của quỹ BHYT đã được Bộ Y tế thường xuyên rà soát, sửa đổi và bổ sung. Ngày 17/11/2014, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 40/2014/TT-BYT ban hành và hướng dẫn thực hiện danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi thanh toán của quỹ BHYT.

Trong những năm qua, với mục tiêu đáp ứng ngày càng đầy đủ, chất lượng hơn về nhu cầu sử dụng thuốc của người bệnh có thẻ BHYT, danh mục thuốc thuộc phạm vi thanh toán của quỹ BHYT đã được Bộ Y tế thường xuyên rà soát, sửa đổi và bổ sung và có những chính sách ưu tiên cho các nhóm đối tượng chính sách.

Ngày 17/11/2014, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 40/2014/TT-BYT ban hành và hướng dẫn thực hiện danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi thanh toán của quỹ BHYT thay thế Thông tư số 31/2011/TT-BYT ngày 11/7/2011 và Thông tư số 10/2012/TT-BYT ngày 08/6/2012. Danh mục thuốc gồm 845 hoạt chất, 1064 thuốc với đầy đủ các chuyên khoa ban hành kèm theo Thông tư số 40/2014/TT-BYT có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 đã đáp ứng được cơ bản nhu cầu điều trị, bảo đảm được quyền lợi cho người bệnh có thẻ BHYT, đồng thời phù hợp với khả năng chi trả của quỹ BHYT. Theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới, Việt Nam là một trong số ít các nước trên thế giới có một danh mục thuốc tương đối đầy đủ, toàn diện và mở rộng so với mức phíđóng BHYT.

Bên cạnh đó, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 05/2015/TT-BYT ban hành Danh mục thuốc đông y, thuốc từ dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT thay thếdanh mục thuốc theo Thông tư số 12/2010/TT-BYT. Danh mục thuốc y học cổ truyền hiện có 229 chế phẩm thuốc, danh mục vị thuốc y học cổ truyền bao gồm 349 vị thuốc. Hầu hết các chế phẩm và vị thuốc được áp dụng cho tất cả các cơ sở khám chữa bệnh, bao gồm bệnh viện y học cổ truyền, bệnh viện có khoa y học cổ truyền, kể cả trạm y tế xã cóđủđiều kiện khám chữa bệnh BHYT theo quy định và không phân hạng bệnh viện (các bệnh viện hạng khác nhau đều được sử dụng toàn bộ thuốc quy định trong Danh mục).

Hiện nay, với mục tiêu đáp ứng ngày càng đầy đủ, chất lượng hơn về nhu cầu sử dụng thuốc của người bệnh có thẻ BHYT, theo định kỳ 2 năm/lần, Bộ Y tế sẽ tiến hành rà soát, sửa đổi và bổ sung Danh mục đặc biệt chú trọng việc mở rộng danh mục thuốc cho y tế tuyến cơ sở.

26. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Cử tri phản ánh, Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 về khám, chữa bệnh cho người nghèo quy định bổ sung đối tượng là người mắc bệnh ung thư, chạy thận, … được khám, chữa bệnh như người nghèo tại khoản 1, Điều 1 Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg, tuy nhiên, một số cơ sở y tế lại yêu cầu người dân mắc bệnh ung thư, chạy thận, … phải về địa phương xác nhận là đối tượng “hộ nghèo” mới được hỗ trợ khám, chữa bệnh là chưa hợp lý. Đề nghị xem xét, chấn chỉnh tình trạng này.

Trả lời:

Bộ Y tế và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư Liên tịch số 33/2013/TTLT-BYT-BTC ngày 18/10/2013 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg nêu trên, trong đó tại Điều 4. Trách nhiệm thi hành có quy định: “Ủy ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm quy định cụ thể trình tự, thủ tục và mức hỗ trợ đối với các nội dung quy định tại Điểm 1, 2, 3 và 4 Khoản 3 Điều 1 Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg phù hợp với khả năng cân đối ngân sách của Quỹ tại địa phương”.

Như vậy, Ủy ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm bố trí ngân sách địa phương, ban hành các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục và mức hỗ trợ để các cơ sở y tế thực hiện. Bộ Y tế kính đề nghị cử tri phản ánh với Ủy ban nhân dân Quảng Nam về tình trạng này để giải quyết.

27. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế chỉ đạo ngành y tế của 4 tỉnh Miền Trung có kế hoạch chăm sóc sức khỏe định kỳ cho người dân đang sinh sống tại vùng biển sau sự cố ô nhiễm môi trường biển đặc biệt nghiêm trọng vừa qua, để người dân yên tâm sản xuất, sinh sống.

Trả lời:

Sau khi xảy ra sự cố môi trường tại các 4 tỉnh miền Trung, tháng 8/2016, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương (văn bản số 186/TB-VPCP ngày 20/7/2016 thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và văn bản số 173/TB-VPCP ngày 08/7/2016 thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Hòa Bình) khẩn trương triển khai các giải pháp cần thiết để xử lý các vấn đề liên quan đến sự cố môi trường biển do Công ty Formosa gây ra. Thủ tướng và Phó Thủ tướng đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ: Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế,... thực hiện ngay các biện pháp nhằm khắc phục những hâu quả về môi trường, đảm bảo đời sống, sinh hoạt và sức khỏe cho người dân trong khu vực này.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Phó Thủ tướng, Bộ Y tế đã xây dựng và thực hiện Kế hoạch số 117/KH-BYT ngày 24/8/2016 về triển khai các giải pháp y tế nhằm bảo đảm an toàn thực phẩm hải sản biển, môi trường nước biển và sức khỏe người dân tại 4 tỉnh miền Trung bị ảnh hưởng bởi sự cố môi trường của Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa. Tiếp đó, Bộ Y tế cũng xây dựng và triển khai Kế hoạch số 1099 /BYT-KH ngày 14/11/2016 về khám sức khỏe, lập hồ sơ theo dõi sức khỏe cho nhân dân tại các địa phương miền Trung bị ảnh hưởng bởi sự cố môi trường giai đoạn 2016-2020. Triển khai các Kế hoạch này, bên cạnh việc kiểm soát về an toàn thực phẩm, Sở Y tế 4 tỉnh này đã phối hợp với Hội thầy thuốc trẻ Việt Nam và Hội chữ thập đỏ tổ chức khám sức khỏe cho người dân ở khu vực bị ảnh hưởng, lập Hồ sơ theo dõi sức khỏe đối với người dân tại khu vực ảnh hưởng môi trường giai đoạn 2016-2020.

Bộ Y tế cũng đang phối hợp với Bảo hiểm Xã hội Việt Nam triển khai việc cấp thẻ bảo hiểm cho người dân trong khu vực bị ảnh hưởng

28. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị: Cử tri đề nghị tăng cường bác sỹ về công tác tại trạm xá các xã, phường, thị trấn để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, đồng thời giảm tải cho bệnh viện tuyến trên.

Trả lời:

Ngày 20/02/2013, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg về việc thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

Bộ Y tế, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 05/6/2007 hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế nhà nước trong đó quy định về nhân lực trạm y tế xã, phường, thị trấn được xác định theo đặc điểm địa lý, kinh tế - xã hội, quy mô dân số.

Ngày 25/10/2016, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 37/2016/TT-BYT của Bộ Y tế hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của trung tâm y tế tuyến huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương.

Theo quy định của các văn bản trên, việc tăng cường bác sĩ về xã phường thị trấn thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các địa phương.

29. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế quan tâm, xem xét quy định các danh mục thuốc chữa bệnh bảo hiểm y tế, vì hiện nay người dân được cấp thuốc bảo hiểm y tế nhưng vẫn phải mua thuốc ngoài hoặc có loại thuốc bệnh nhân cần dùng để chữa bệnh thường xuyên nhưng không nằm trong danh mục thuốc bảo hiểm y tế.

Trả lời:

Về quy định Danh mục thuốc thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT, ngày 17/11/2014, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 40/2014/TT-BYT ban hành và hướng dẫn thực hiện danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế (BHYT) và Thông tư số 05/2015/TT-BYT ngày 17/3/2015 ban hành và hướng dẫn danh mục thuốc đông y, thuốc từ dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT.

Về danh mục thuốc tân dược, có thể khẳng định rằng, Thông tư số 40/2014/TT-BYT ban hành đã đáp ứng được nhu cầu điều trị, bảo đảm được quyền lợi cho người bệnh có thẻ BHYT, đồng thời phù hợp với khả năng chi trả của quỹ BHYT. Danh mục thuốc tân dược gồm 845 hoạt chất, 1064 thuốc với đầy đủ các chuyên khoa. Việt Nam được đánh giá là một trong số ít các nước trên thế giới có danh mục thuốc tương đối đầy đủ, toàn diện và mở rộng so với mức phí đóng BHYT.

So với Thông tư số 31/2011/TT-BYT, Thông tư số 40/2014/TT-BYT bổ sung mới 37 thuốc thuộc nhiều chuyên khoa khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu điều trị, phù hợp với sự phát triển khoa học của công nghiệp dược; bổ sung dạng dùng của 22 thuốc và mở rộng tuyến sử dụng của 77 thuốc để tạo điều kiện cho người bệnh có thẻ BHYT được tiếp cận thuốc điều trị tại tuyến y tế cơ sở như bệnh viện huyện, trạm y tế xã, phường, giảm bớt thời gian và chi phí đi lại cho người bệnh, đồng thời góp phần giảm tải cho các bệnh viện tuyến trên. Đối với 11 thuốc điều trị ung thư, chống thải ghép nằm ngoài danh mục ban hành kèm theo Thông tư số 31/2011/TT-BYT và được quỹ BHYT thanh toán 50% nếu có thời gian tham gia BHYT trên 36 tháng, Bộ Y tế đã đưa vào danh mục thuốc   kèm theo Thông tư 40/2014/TT-BYT và bỏ quy định thời gian tham gia BHYT liên tục trên 36 tháng.

Bên cạnh đó, Thông tư số 36/2015/TT-BYT sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 40/2014/TT-BYT đã cho phép người bệnh đang được điều trị một số thuốc ung thư Doxorubicin, Erlotinib, Gefitinib, Sorafenib trước ngày thông tư có hiệu lực, tiếp tục được quỹ BHYT thanh toán 100% chi phí.Quy định này giúp bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người bệnh có thẻ BHYT, giúp cho người bệnh được sớm tiếp cận điều trị.

Về danh mục thuốc y học cổ truyền, Thông tư số 05/2015/TT-BYT ban hành danh mục vị thuốc, chế phẩm thuốc y học cổ truyền thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT ban hành ngày 17/11/2015 hiện có 229 chế phẩm – tăng 102 chế phẩm, và 349 vị thuốc – tăng 49 vị thuốc so với Thông tư số 12/2010/TT-BYT ngày 29/4/2010, được áp dụng cho tất cả các cơ sở khám chữa bệnh, bao gồm bệnh viện y học cổ truyền, bệnh viện có khoa y học cổ truyền, kể cả trạm y tế xã có đủ điều kiện khám chữa bệnh BHYT theo quy định. Danh mục thuốc BHYT ban hành trong các Thông tư số 40/2014/TT-BYT và Thông tư số 05/2015/TT-BYT được ghi dưới dạng tên hoạt chất/thành phần, không ghi hàm lượng,dạng bào chế và tên thương mại. Như vậy, việc lựa chọn thuốc thành phẩm được Quỹ BHYT thanh toán tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không bị giới hạn bởi chủng loại thuốc với giá rẻ hay đắt, thuốc nội hay thuốc ngoại. Căn cứ vào mô hình bệnh tật, nhu cầu khám chữa bệnh và khả năng chi trả của Quỹ BHYT, cơ sở khám chữa bệnh xây dựng danh mục thuốc sử dụng tại đơn vị để mua sắm lựa chọn thuốc thành phẩm phù hợp.

Hiện nay, với mục tiêu đáp ứng ngày càng đầy đủ, chất lượng hơn về nhu cầu sử dụng thuốc của người bệnh có thẻ BHYT, theo định kỳ 2 năm/lần, Bộ Y tế sẽ tiến hành rà soát, sửa đổi và bổ sung Danh mục; đặc biệt chú trọng việc mở rộng danh mục thuốc cho y tế tuyến cơ sở trong đó có trạm y tế xã.

30. Cử tri tỉnh Thừa Thiên – Huế kiến nghị: Trung tâm điều trị theo yêu cầu và quốc tế của Bệnh viện Trung ương Huế là trung tâm khám, chữa bệnh chất lượng cao, chí phí rất tốn kém. Theo ý kiến phản ánh của cử tri, một số bệnh nhân khi đến khám, chữa bệnh ở Bệnh viện Trung ương Huế được chuyển qua Bệnh viện Quốc tế Trung ương Huế để điều trị. Đề nghị Bộ Y tế kiểm tra cơ chế khám, chữa bệnh không rõ ràng giữa công và tư này

Trả lời:

Bộ Y tế sẽ kiểm tra và sẽ có thông tin lại cho cử tri.

31. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị xem xét cho các cơ sở khám, chữa bệnh ban đầu được tổ chức khám, chữa bệnh và thực hiện thanh toán bảo hiểm y tế ngoài giờ hành chính cho học sinh và người lao động, nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng này khi tham gia bảo hiểm y tế .

Trả lời:

Thông tư liên tịch số 16/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 02/7/2015 của liên Bộ Y tế - Tài chính, quy định: “Trường hợp cơ sở y tế quá tải, có tổ chức khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế (BHYT) vào ngày nghỉ, ngày lễ phải thông báo cho tổ chức Bảo hiểm xã hội để bổ sung vào hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh trước khi thực hiện. Người có thẻ BHYT đến khám bệnh, chữa bệnh được quỹ BHYT thanh toán trong phạm vi quyền lợi và mức hưởng BHYT. Cơ sở y tế có trách nhiệm bảo đảm về nhân lực, điều kiện chuyên môn, phải công khai những khoản chi phí mà người bệnh phải chi trả ngoài phạm vi được hưởng của người tham gia BHYT và phải thông báo trước cho người bệnh; người bệnh phải tự chi trả phần chi phí ngoài phạm vi quyền lợi và mức hưởng BHYT (nếu có)”.

Như vậy, đã có quy định cơ sở khám, chữa bệnh được tổ chức khám, chữa bệnh vào ngày nghỉ, ngày lễ. Hiện nay, nhiều cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã tổ chức khám, chữa bệnh BHYT vào ngày nghỉ, ngày lễ để phục vụ để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh và bảo đảm quyền lợi của người tham gia BHYT như: Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Nhân dân Gia Định, Bệnh viện cấp cứu Trưng Vương, Bệnh viện Chỉnh hình và phục hồi chức năng TP.HCM…

Đối với việc quy định khám chữa bệnh ngoài giờ hành chính, Bộ Y tế sẽ phối hợp với Bộ Lao động và Thương binh Xã hội nghiên cứu để hướng dẫn, bảo đảm phù hợp với Bộ Luật lao động, với đặc thù của người lao động trong ngành y.

32. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị xem xét, cân đối lại thời gian điều trị bằng thuốc cho mỗi lẫn khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, vì trước đây việc kê toa thuốc đối với các bệnh mãn tính là 04 tuần/lần khám, hiện nay giảm chỉ còn 01 - 02 tuần/lần khám, gây tốn kém chi phí và thời gian của người bệnh, đã ảnh hưởng đến công tác vận động và thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.

Trả lời:

Việc kê đơn, cấp phát ngoại trú thuốc bảo hiểm y tế (BHYT) được thực hiện theo quy định Thông tư số 05/2016/TT-BYT ngày 29/02/2016 của Bộ Y tế quy định về kê đơn thuốc trong điều trị ngoại trú. Theo đó, Khoản 3 Điều 4 Thông tư số 05/2016/TT-BYT quy định: “Số lượng thuốc được kê đơn thực hiện theo Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị của Bộ Y tế hoặc đủ sử dụng tối đa 30 (ba mươi) ngày”. Như vậy, số lượng thuốc được kê đơn và cấp phát thuốc cho bệnh nhân điều trị ngoại trú hoàn toàn phụ thuộc vào yêu cầu chuyên môn, theo đúng Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị của Bộ Y tế; trường hợp chưa có Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị của Bộ Y tế hoặc Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị của Bộ Y tế không quy định cụ thể số lượng thì được phép kê đơn số lượng thuốc đủ sử dụng tối đa 30 ngày.

33. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị xem xét, kéo dài thời gian chuyển tuyến 01 lần/năm đối với các bệnh trong danh mục 47 loại bệnh chỉ cần xin giấy chuyển tuyến một lần bằng thời hạn ghi trên thẻ bảo hiểm y tế của người tham gia bảo hiểm y tế, nhằm đơn giản hóa thủ tục khám, chữa bệnh cho người tham gia bảo hiểm y tế, tạo thuận lợi cho họ trong việc sử dụng các quyền của mình khi cần thiết .           

Trả lời:

Việc quy định thời hạn chuyển tuyến 01 năm đối với các bệnh trong danh mục bệnh điều trị dài ngày là để phù hợp với thẻ bảo hiểm y tế của người tham gia bảo hiểm y tế và quyết toán sử dụng quỹ khám chữa bệnh trong 01 năm.

Tuy nhiên, Bộ Y tế sẽ tổng hợp và nghiên cứu để hướng dẫn thời hạn chuyển tuyến đối với các bệnh điều trị dài ngày phù hợp với thời hạn sử dụng thẻ (thẻ loại 1 năm, thẻ loại 3 năm hoặc 5 năm).

34. Cử tri TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri bức xúc trong thời gian gần đây đã xảy ra nhiều sai phạm về chuyên môn trong ngành Y tế. Đề nghị ngành y tế cần rút kinh nghiệp sâu sắc, đồng thời xử lý nghiêm các sai phạm trong việc khám, chữa bệnh .

Trả lời:

1. Về quản lý sai sót y khoa

- Đối với một số sai sót trong phẫu thuật thời gian gần đây ngay sau khi nhận được thông tin, Bộ Y tế đã có công văn chỉ đạo xác minh thông tin và xử lý nếu có sai phạm. Và nhằm bảo đảm an toàn người bệnh, đặc biệt an toàn trong phẫu thuật, thủ thuật, Bộ Y tế đã ban hành công văn số 847/KCB-QLCL ngày 28/7/2016 về việc tăng cường các biện pháp bảo đảm an toàn phẫu thuật. Sau khi có chỉ đạo của Bộ Y tế, các đơn vị đã khẩn trương xác minh, có hình thức xử lý đối với các cá nhân, tập thể liên quan, như BV 115 Nghệ An đã quyết định đình chỉ công tác 01 tháng với bác sĩ để xảy ra sai sót trên, toàn bộ kíp mổ bị kỷ luật khiển trách; Bệnh viện Việt Đức đã quyết định tạm đình chỉ hoạt động chuyên môn đối với bác sĩ mổ nhầm chân bệnh nhân; Sở Y tế Thanh Hóa đã tiến hành kỷ luật khiển trách đối với Giám đốc Bệnh viện đa khoa huyện Nông Cống (nơi xảy ra sai sót), kỷ luật cảnh cáo toàn ngành và đình chỉ phẫu thuật trong thời gian 3 tháng đối với người trực tiếp phẫu thuật gây tai biến; kíp phẫu thuật nhận hình thức khiển trách.

- Ngoài ra, để phòng ngừa, hạn chế sự cố y khoa, Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản quản lý như Quy chế bệnh viện năm 1997 (Trong đó có quy chế quản lý buồng bệnh, buồng thủ thuật; Quy chế công tác khoa Ngoại); Thông tư 13/2012/TT-BYT ngày 20/8/2012 Hướng dẫn công tác gây mê – Hồi sức; Quyết định số 4290/QĐ-BYT ngày 15/10/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành hướng dẫn vệ sinh môi trường bề mặt khu phẫu thuật; Hướng dẫn bảo đảm an toàn phẫu thuật theo tài liệu đào tạo liên tục ban hành kèm theo Quyết định số 56/BYT-K2ĐT ngày 16/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế; Cẩm nang bảng kiểm thực hành an toàn phẫu thuật; Tài liệu hướng dẫn quy trình làm sạch phòng mổ; Ban hành 5124 hướng dẫn quy trình kỹ thuật của 28 chuyên khoa và xây dựng 13 cuốn hướng dẫn chẩn đoán và điều trị; Thông tư số 07/2015/TT-BYT áp dụng kỹ thuật mới, phương pháp mới trong khám chữa bệnh, Thông tư số 43/2013/TT-BYT Quy định chi tiết phân tuyến chuyên môn kỹ thuật và nhiều thông tư, văn bản khác như bệnh viện vệ tinh, công tác luân phiên cán bộ hỗ trợ tuyến dưới, tích cực chỉ đạo tuyến... Hiện nay, để khắc phục hơn nữa hiện tượng sai sót y khoa nói chung và sai sót trong phẫu thuật nói riêng, Bộ Y tế đang khẩn trương xây dựng Thông tư Hướng dẫn phòng ngừa, quản lý sự cố y khoa; Bộ tiêu chuẩn an toàn phẫu thuật tại các cơ sở y tế.

2. Để giảm thiểu hơn nữa các sai phạm chuyên môn trong thời gian tới, trong thời gian tới Bộ Y tế sẽ thực hiện nhiều giải pháp như

Tập trung nâng cao năng lực chuyên môn của các bệnh viện tuyến dưới thông qua việc thực hiện hiệu quả các Đề án: Đề án bệnh viện vệ tinh, Đề án 1816; Quyết định số 14/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ luân phiên có thời hạn của người hành nghề tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát hoạt động dược bệnh viện: sử dụng thuốc an toàn, hợp lý; triển khai Kế hoạch hành động quốc gia về chống kháng thuốc (Quyết định số 2174/QĐBYT ngày 21/6/2013);  đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng thuốc và điều trị; hoạt động dược lâm sàng, thông tin, tư vấn về sử dụng thuốc; chấn chỉnh công tác kê đơn thuốc. Chỉ đạo và tăng cường công tác điều dưỡng, kiểm soát nhiễm khuẩn, an toàn truyền máu, dinh dưỡng lâm sàng, an toàn bức xạ trong khám chữa bệnh.

Thực hiện thanh tra chuyên ngành khám bệnh, chữa bệnh theo kế hoạch và phân công của Lãnh đạo Bộ. Tăng cường kiểm tra, xử lý giám sát việc thực hiện Chỉ thị 09/CTBYT ngày 22/11/2013 về việc tăng cường tiếp nhận và xử lý ý kiến phản ánh của người dân về chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh thông qua đường dây nóng.

35. Cử tri TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Đề nghị tăng cường kiểm tra việc khám, chữa bệnh của các cơ sở y tế, nhất là cơ sở y tế tư nhân để đảm bảo quyền lợi cho người bệnh.

Trả lời:

Thời gian qua Bộ Y tế đã xây dựng trình Quốc hội, Chính phủ ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để quản lý công tác khám, chữa bệnh trong đó có y tế tư nhân như: Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009; Nghị định số 87/2011/NĐ-CP ngày 27/9/2011  về  Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khám bệnh, chữa bệnh; Nghị định quy định cấp Chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp Giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám, chữa bệnh; Thông tư số 41/2011/TT-BYT ngày 14/11/2011 về Hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; Thông tư số 41/2015/TT-BYT sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 41/2011/TT-BYT ngày 14/11/2011 của Bộ trưởng Bộ Y tế hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

Trong thời gian qua, Thanh tra Bộ Y tế , Sở Y tế các địa phương đã tích cực kiểm tra các cơ sở y tế tư nhân. Kết quả kiểm tra, thanh tra hành nghề khám bệnh, chữa bệnh: Số lần thanh tra, kiểm tra: 5.707 lượt, trong đó số cơ sở KBCB được kiểm tra : 11.354 cơ sở; Số cơ sở KBCB bị xử phạt cảnh cáo : 297 cơ sở;  Số cơ sở KBCB bị xử phạt hành chính : 712 cơ sở; Số cơ sở KBCB bị đình chỉ : 42; Số cơ sở KBCB bị xử phạt tiền : 622; Tổng số tiền xử phạt : 10.664.370.000. Tính đến 30/6/2016, có 153 CCHN bị thu hồi trên toàn quốc, 359 GPHĐ bị thu hồi (chủ yếu do cơ sở tạm dừng hoạt động trong 12 tháng liên tục hoặc dừng hoạt động, chiếm 325 trường hợp.

36. Cử tri tỉnh Bắc Giang, Long An, Tiền Giang, TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị xem xét, giảm mức đóng bảo hiểm y tế hoặc cho phép hộ gia đình mua bảo hiểm y tế theo từng đợt trong năm hoặc trả làm nhiều lần, để tạo điều kiện thuận lợi cho hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế đầy đủ, vì mức đóng theo quy định như hiện nay còn cao so với điều kiện kinh tế của nhiều hộ gia đình, nhất là các hộ gia đình ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, gia đình đông nhân khẩu, có thu nhập thấp.

Trả lời:

Về mức đóng bảo hiểm y tế (BHYT) được quy định cụ thể trong Luật BHYT và các văn bản hướng dẫn được tính toán dựa vào khả năng đóng góp của các nhóm đối tượng, mức lương cơ sở, phạm vi quyền lợi và khả năng cân đối quỹ BHYT; các Bộ, ngành và các Đại biểu Quốc hội đã thảo luận rất kỹ trước khi quyết định. Những đối tượng chính sách xã hội đã được nhà nước mua thẻ BHYT gồm: người nghèo, người dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng… được Nhà nước đóng (100%), người thuộc hộ gia đình cận nghèo được ngân sách nhà nước hỗ trợ 70% mức đóng. Vì vậy, mức đóng quy định như hiện nay là tương đối phù hợpso với mức hưởng, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHYT và cân đối thu chi quỹ BHYT.

Để tạo điều kiện và khuyến khích người dân tham gia BHYT, trường hợp tham gia BHYT theo hộ gia đình, tại Khoản 3 Điều 13 Luật BHYT đã quy định mức đóng BHYT được giảm trừ dần từ thành viên thứ hai trở đi khi tất cả thành viên hộ gia đình tham gia BHYT, cụ thể là:

- Người thứ nhất đóng bằng 4,5% mức lương cơ sở (hiện tại tương đương 621.000 đồng/thẻ/ năm);

- Người thứ hai, thứ ba, thứ tư đóng lần lượt bằng 70%, 60%, 50% mức đóng của người thứ nhất;

- Từ người thứ năm trở đi đóng bằng 40% mức đóng của người thứ nhất.

Về cho phép hộ gia đình mua BHYT theo từng đợt trong năm hoặc trả làm nhiều lần: Theo khoản 6 Điều 15 Luật BHYT đã quy định: “Định kỳ 3 tháng, 6 tháng hoặc 12 tháng, đại diện hộ gia đình, tổ chức, cá nhân đóng đủ số tiền thuộc trách nhiệm phải đóng vào quỹ bảo hiểm y tế”. Như vậy, không bắt buộc người tham gia BHYT phải đóng đủ 1 lần/1 năm, mà có thể đóng thành nhiều lần/năm.

37. Cử tri tỉnh Bình Định, Hải Phòng, Khánh Hòa, Nghệ An kiến nghị: Cử tri cho rằng, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc thâm hụt quỹ bảo hiểm y tế, thậm chí vỡ quỹ bảo hiểm y tế là do tình trạng lạm dụng, trực lợi quỹ bảo hiểm y tế. Đề nghị Bộ Y tế phối hợp Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các địa phương tăng cường các biện pháp rà soát, thanh tra, kiểm tra, giám sát việc sử dụng quỹ bảo hiểm y tế, kịp thời xử lý nghiêm các hành vi lạm dụng, trục lợi nhằm sử dụng hiệu quả quỹ bảo hiểm y tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia bảo hiểm y tế.

Trả lời:

Theo quy định của Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế, các hành vi vi phạm liên quan đến bảo hiểm y tế (BHYT) đều bị xử phạt hành chính, với các mức phạt khá cao. Đồng thời để chấn chỉnh các hành vi lạm dụng thẻ BHYT, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Chỉ thị số 06/CT-BYT ngày 13/6/2014 về việcTăng cường công tác thanh tra, kiểm tra phòng chống hành vi gian lận, trục lợi quỹ BHYT tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam tổ chức nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách pháp luật về BHYT, đã kịp thời chấn chỉnh các trường hợp lạm dụng và đã chuyển cơ quan pháp luật khởi tố đối với một số trường hợp sử dụng thẻ BHYT của người khác lấy thuốc để bán.

Để hạn chế tình trạng lạm dụng, trục lợi Quỹ BHYT, Bộ Y tế đã phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam xây dựng hệ thống Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý khám chữa bệnh và thanh toán BHYT chi phí khám chữa bệnh BHYT, hệ thống này sẽ phát hiện những cơ sở khám chữa bệnh, người bệnh BHYT có tần suất khám bệnh, chữa bệnh cao; sử dụng thuốc, dịch vụ kỹ thuật y tế không phù hợp, không đúng với bệnh tật, để từ đó kịp thời xử lý các trường hợp lạm dụng thẻ BHYT để lấy thuốc không đúng quy định.

38. Cử tri tỉnh Đắk Nông, Đồng Tháp, Gia Lai, Kiên Giang kiến nghị: Cử tri đề nghị chuyển việc đóng bảo hiểm y tế học sinh theo trường học về đóng bảo hiểm y tế theo hộ gia đình, để người dân được giảm mức đóng bảo hiểm y tế hộ gia đình theo chính sách đã ban hành.

Trả lời:

Theo quy định mỗi người dân chỉ có thể tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) theo 01 nhóm đối tượng. Để tránh xáo trộn, trùng lặp, giảm bớt khó khăn trong việc triển khai, theo dõi, tổng hợp đối với việc bao phủ BHYT của các nhóm đối tượng, thuận lợi cho việc quản lý đối tượng tham gia BHYT, Điều 12 Luật BHYT quy định các đối tượng tham gia BHYT theo thứ tự từ trên xuống dưới, trong đó học sinh, sinh viên (HSSV) thuộc Nhóm 4 (Nhóm được ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng), nên không thể tham gia BHYT theo Nhóm 5 (Nhóm hộ gia đình) được, quy định này phần nào cũng chưa tạo điều kiện thuận lợi nhất để HSSV tham gia BHYT, ảnh hưởng đến quyền lợi được giảm trừ mức đóng BHYT, nhất là đối với các HSSV thuộc đối tượng các hộ gia đình có từ 4 thành viên trở lên.Tuy nhiên, theo Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 24/11/2014 hướng dẫn thực hiện Luật BHYT, HSSV đã được Ngân sách nhà nước hỗ trợ tối thiểu 30% mức đóng BHYT. 

Hiện nay, Bộ Y tế đang tiếp tục phối hợp với Bộ Tài chính và Bảo hiểm Xã hội Việt Nam nghiên cứu, sửa đổi Nghị định số 105/NĐ-CP, đề xuất cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh quy định trên, nâng mức hỗ trợ đóng BHYT của HSSV cao hơn mức hỗ trợ 30% để bảo đảm quyền lợi của HSSV và cân đối tương đồng với nhóm đối tượng tham gia BHYT khác. 

39. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Để khuyến khích mọi người tham gia bảo hiểm y tế, đề nghị nên công bố rộng rãi giá mua bảo hiểm y tế từ cấp cơ sở, huyện, tỉnh và trung ương, để người dân quyết định chọn mua bảo hiểm y tế theo khả năng, gắn với nơi khám, chữa bệnh ban đầu.

Trả lời:

Theo Luật Bảo hiểm y tế (BHYT), thì BHYThiện đang được áp dụng hiện nay là bảo hiểm bắt buộc, được áp dụng đối với tất cả các đối tượng. Mức đóng BHYT cũng được Luật BHYT quy định tại Điều 13, theo đó, những người không thuộc nhóm đối tượng chính sách, mức đóng tối đa không quá 6% mức tiền lương, tiền công của người lao động; các nhóm đối tượng khác được Nhà nước hỗ trợ một phần mức đóng BHYT. Như vậy, đối với BHYT hiện nay, không có nhiều mức giá mua bảo hiểm y tế như cử tri đề cập. Cũng theo Luật BHYT, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam là cơ quan được giao nhiệm vụ tuyên truyền, vận động người dân tham gia BHYT và bán thẻ BHYT cho người dân.

Ngoài quy định bắt buộc mua thẻ BHYT theo Luật quy định, người dân có thể tham gia BHYT theo hình thức thương mại của các Công ty bảo hiểm. Ở đó họ mới có các giá bảo hiểm khác nhau để người dân lựa chọn. Việc sử dụng hình thức bảo hiểm này được thực hiện theo quy định bảo hiểm thương mại.

40. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Về bảo hiểm y tế cho học sinh, đề nghị quy định đóng theo đúng một năm, không nên quy định đóng theo học kỳ là 9 tháng.

Trả lời:

Luật BHYT và Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 24/11/2014 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế quy định phương thức đóng bảo hiểm y tế của học sinh, sinh viên theo năm tài chính, định kỳ đóng là 6 tháng hoặc 12 tháng/1 lần, không có quy định nào là đóng 9 tháng theo cử tri phản ánh. Tuy nhiên, đối với học sinh vào lớp 1 và sinh viên năm thứ nhất có thể đóng cho hết 01, 02 hoặc 03 tháng của năm đó cho hết năm tài chính của năm vào học, sau đó mới đóng tiếp bảo hiểm y tế của các năm sau từ tháng 01 đến hết năm học (theo định kỳ 6 hoặc 12 tháng/1 lần).

41. Cử tri tỉnh Bình Dương kiến nghị: Cử tri phản ánh, việc thực hiện bảo hiểm y tế cho người có công với cách mạng thì đối tượng thương binh từ loại 2 đến loại 4 còn có những hạn chế trong việc khám, chữa bệnh như một số thuốc đặc trị không được hưởng, không được hỗ trợ phương pháp điều trị kỹ thuật cao, … Đề nghị ngành chức năng quan tâm, điều chỉnh chính sách bảo hiểm y tế đối với người có công cho phù hợp (Bình Dương). Câu 44. Cử tri phản ánh việc thực hiện bảo hiểm y tế cho người có công cách mạng đối với các đối tượng thương binh từ loại 2 đến loại 4 còn có những hạn chế trong khâu khám và điều trị như: một số thuốc đặc trị, không được hỗ trợ phương pháp điều trị kỹ thuật cao. Cử tri đề nghị ngành chức năng quan tâm điều chỉnh chính sách bảo hiểm y tế đối với người có công cho phù hợp,

Trả lời:

Theo quy định của Luật bảo hiểm y tế (BHYT), đối tượng thương binh (Khoản 9 Điều 12 Luật BHYT) được quỹ BHYT thanh toán 100% chi phí khám chữa bệnh trong phạm vi được hưởng (điểm a Khoản 1 Điều 22 Luật BHYT, điểm a Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 105/2014/NĐ-CP ngày 15/11/2014) nếu đi khám chữa bệnh BHYT đúng quy định. Như vậy, với đối tượng là người có công với cách mạng nếu đi khám chữa bệnh đúng tuyến thì được hưởng 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh và không áp dụng giới hạn tỷ lệ thanh toán các thuốc, hóa chất, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế về danh mục và tỷ lệ, điều kiện thanh toán thuốc, hóa chất, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, thương binh loại B (điểm b Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 105/2014/NĐ-CP ngày 15/11/2014).

Trong quá trình điều trị bệnh, việc sử dụng loại thuốc nào tùy thuộc vào quyết định của bác sỹ; trên cơ sở chẩn đoán và khám bệnh, bác sỹ sẽ quyết định nên sử dụng loại thuốc nào cũng như nên sử dụng phương pháp điều trị nào có  hiệu quả cao trong điều trị cho người bệnh. Nếu cử tri có thông tin cụ thể (tên bệnh nhân, tên bệnh viện, thời gian điều trị,…) về trường hợp thương binh từ loại 2 đến loại 4 bị “hạn chế trong việc khám, chữa bệnh như một số thuốc đặc trị không được hưởng, không được hỗ trợ phương pháp điều trị kỹ thuật cao”, đề nghị cung cấp cho Bộ Y tế để tiến hành kiểm tra, xử lý nếu phát hiện vi phạm.

42. Cử tri tỉnh BÌnh Dương kiến nghị: Trước đây, người bệnh khi khám, chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế vượt tuyến trung ương mức chi trả 70% chi phí, vượt tuyến tỉnh mức chi trả là 30% chi phí đối với điều trị nội trú, hiện nay, người bệnh khám, chữa bệnh vượt tuyến không được hưởng theo chế độ này. Đề nghị nên duy trì chế độ bảo hiểm y tế như trước đây.

Trả lời:

Hiện tại khi người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) đi khám, chữa bệnh trái tuyến tại bệnh viện tuyến Trung ương được quỹ BHYT thanh toán 40% chi phí điều trị nội trú và theo mức hưởng, không thanh toán chi phí khám bệnh ngoại trú. Trong thời gian tới, Bộ Y tế cũng sẽ nghiên cứu, đề xuất với Quốc hội sửa đổi quy định mức hưởng BHYT trong trường hợp đi khám, chữa bệnh không đúng tuyến cho phù hợp.

43. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế chỉ đạo các cơ sở y tế không nên tạm ứng viện phí đối với các đối tượng được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 100%, để tránh gây khó khăn, phiền hà cho người bệnh và gia đình.

Trả lời:

Ngày 29/3/2016, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Chỉ thị số 06/CT-BYT về việc tăng cường bảo đảm chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh khi thực hiện điều chỉnh, thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế (BHYT) giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc. Trong đó, quy định không thu tiền tạm ứng đối với người có thẻ BHYT khi đi khám chữa bệnh, trừ phần cùng chi trả của đối tượng phải cùng chi trả và chi phí chênh lệch do sử dụng dịch vụ theo yêu cầu.

44. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị: Đề nghị ban hành văn bản thực hiện thống nhất việc mua bảo hiểm y tế theo hộ gia đình, tránh sự chồng chéo giữa các đối tượng tham gia trong cùng một gia đình, nhằm đảm bảo quyền lợi của người dân theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế 2015.

Trả lời:

Theo quy định tại Khoản 5 Điều 12 Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) đã quy định rất rõ các đối tượng tham gia BHYT theo hộ gia đình. Trong đó, nhóm tham gia BHYT theo hộ gia đình gồm những người thuộc hộ gia đình trừ những đối tượng quy định tại các khoản 1,2,3 và 4 Điều 12 Luật BHYT (gồm: “Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về lao động; người lao động là người quản lý doanh nghiệp hưởng tiền lương, tiền công theo quy định của pháp luật về tiền lương, tiền công; cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là người lao động); Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn, kỹ thuật đang công tác trong lực lượng Công an nhân dân; Người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng; và Người đang hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng do bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.”).

Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã có văn bản hướng dẫn cụ thể việc mua thẻ BHYT theo hộ gia đình theo hướng đơn giản, tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia BHYT, thực hiện thống nhất trên phạm vi toàn quốc.

Đề nghị cử tri thông tin cụ thể hơn việc chưa thống nhất, chồng chéo giữa các đối tượng tham gia trong cùng một gia đình để Bộ Y tế có chỉ đạo kịp thời.

45. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế tham mưu cho Chính phủ giao cho một đơn vị độc lập trực thuộc Bộ Y tế thực hiện chức năng thẩm định hồ sơ đề nghị thanh quyết toán bảo hiểm y tế, đảm bảo chặt chẽ, đúng chuyên môn, tránh tình trạng lạm dụng, trục lợi quỹ bảo hiểm y tế.

Trả lời:

Bộ Y tế đã nhiều lần đề xuất thành lập “Cơ quan giám định độc lập” để bảo đảm tính công khai, minh bạch giữa bên trả tiền và bên cung ứng dịch vụ trong các lần dự thảo sửa đổi Luật bảo hiểm y tế. Đề xuất này của Bộ Y tế đang chưa được Chính phủ và Quốc hội xem xét.

46. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế phối hợp Bộ Tài chính xây dựng và ban hành văn bản quy định thống kê những trường hợp tham gia bảo hiểm y tế có thời gian liên tục từ 5 năm trở lên và thông báo cho người dân biết để thực hiện các quyền lợi theo quy định của pháp luật. Nếu trong suốt 5 năm liên tục, người tham gia bảo hiểm y tế chưa có phát sinh chi phí khám, chữa bệnh thì nên quy định được hưởng gói dịch vụ kiểm tra sức khỏe tương ứng, để phòng bệnh và động viên người dân tham gia mua bảo hiểm y tế.

Trả lời:

Hiện nay chính sách quy định quyền lợi cho những người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) có thời gian liên tục từ 5 năm trở lên đã được quy đinh tại Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC của Bộ Y tế – Bộ Tài chính. Theo Điểm d khoản 1 Điều 5 Thông tư số 41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 24/11/2014, thời gian tham gia BHYT liên tục 5 năm được ghi rõ trên thẻ BHYT. Về quyền lợi của người tham gia BHYT liên tục 5 năm, Khoản e Điều 22 ghi rõ “Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố căn cứ chứng từ thu phần chi phí cùng chi trả của người bệnh để xác định số tiền cùng chi trả lũy kế trong năm để cấp giấy chứng nhận không cùng chi trả trong năm cho người có thời gian tham gia BHYT 5 năm liên tục trở lên và có số tiền cùng chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong năm lớn hơn 6 tháng lương cơ sở, trừ trường hợp tự đi khám bệnh, chữa bệnh không đúng tuyến quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 22 sửa đổi, bổ sung của Luật BHYT. Ví dụ 12: Đến ngày 01/5/2015, ông A có thời gian tham gia BHYT liên tục 60 tháng và có số tiền cùng chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh lũy kế từ ngày 01/01/2015 đến ngày 01/5/2015 là 7 triệu đồng (lớn hơn 6 tháng lương cơ sở). Từ ngày 01/5/2015 đến hết ngày 31/12/2015, ông A được quỹ BHYT thanh toán 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi quyền lợi BHYT.”

47. Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị: Cử tri cho rằng, quy định về mua bảo hiểm y tế theo hộ gia đình hiện nay đã gây khó khăn cho những người đi làm ăn xa nơi cư trú. Đề nghị cho phép những người đi làm ăn xa nơi cư trú được phép sử dụng giấy chứng minh thư nhân dân làm cơ sở để mua bảo hiểm y tế.

Trả lời:

Sau thời gian tổ chức thực hiện BHYT theo hộ gia đình, từ những vướng mắc và kiến nghị của các địa phương, Bộ Y tế đã đề nghị Bảo hiểm xã hội Việt Nam hướng dẫn cụ thể việc kê khai, lập danh sách, thu BHYT theo hướng đơn giản thủ tục tham gia BHYT theo hộ gia đình, vừa đảm bảo sự thống nhất trong triển khai, tránh làm phát sinh những thủ tục phiền hà, vừa tạo thuận lợi cho người tham gia BHYT; Không bắt buộc người tham gia BHYT theo hộ gia đình phải trình cơ quan quản lý các loại giấy tờ để chứng minh về đặc điểm nhân thân đối tượng, về sự tham gia BHYT của thành viên hộ gia đình (như photocopy thẻ BHYT của thành viên hộ gia đình đã tham gia BHYT; không phải xuất trình giấy tạm vắng, giấy xác nhận ly hôn hoặc các giấy tờ khác thuộc về trách nhiệm quản lý của Ủy ban nhân dân cấp xã). Nghiên cứu mở rộng các hình thức tổ chức đại lý thu BHYT theo hướng cá nhân, cơ quan nào dễ tiếp cận với người dân nhất đều có thể làm đại lý thu BHYT (ví dụ: Trạm y tế xã/phường, phòng khám bác sỹ gia đình, bưu điện).

Đối với những người đi làm ăn xa nơi cư trú chỉ cần đến cơ quan bảo hiểm xã hội hoặc ủy ban nhân dân xã/phường hoặc đại lý thu BHYT nơi cư trú xuất trình giấy chứng minh thư nhân dân và đăng ký tạm trú để được mua BHYT.

48. Cử tri tỉnh Đồng Nai  kiến nghị: Cử tri đề nghị mức chi trả bảo hiểm y tế 100% đối với cựu quân nhân dân tham gia phục vụ kháng chiến và thực hiện nghĩa vụ quốc tế tại chiến trường Campuchia vì họ cùng thuộc đối tượng có công với cách mạng, mà hiện nay chỉ được hưởng mức chi trả bảo hiểm y tế 95%.

Trả lời:

Theo quy định tại Nghị định số 105/2014/NĐ-CP ngày 15/11/2014 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHYT sửa đổi, bổ sung năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thực hiện thì cựu chiến binh tham gia kháng chiến theo quy định của Pháp lệnh Cựu chiến binh; những người trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước quy định tại Quyết định số 290/2005/QĐ-TTg, Quyết định số 188/2007/QĐ-TTg, Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg và những người tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia, giúp bạn Lào sau ngày 30/4/1975 quy định tại Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg đều thuộc nhóm đối tượng được hưởng BHYT với mức hưởng cao nhất (100%) như đối tượng người có công với cách mạng.

49. Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: Đề nghị nghiên cứu, ban hành chính sách hỗ trợ kinh phí mua thẻ bảo hiểm y tế cho người lao động nghỉ việc hưởng trợ cấp một lần theo Quyết định 176/HĐBT ngày 09/10/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về sắp xếp lại lao động trong đơn vị kinh tế quốc doanh.

Trả lời:

- Theo quy định tại Điều 12 Luật bảo hiểm y tế (BHYT), người lao động nghỉ đã được Nhà nước chi trả khoản trợ cấp thôi việc khi nghỉ việc theo Quyết định số 176/HĐBT ngày 09/10/1989 của Hội đồng Bộ trưởng không được ngân sách nhà nước hỗ trợ mua thẻ BHYT, nếu nhóm đối tượng này muốn tham gia BHYT thì tham gia theo hộ gia đình.

- Về đề nghị nghiên cứu, ban hành chính sách hỗ trợ kinh phí mua thẻ BHYT cho người lao động nghỉ việc hưởng trợ cấp một lần theo Quyết định 176/HĐBT ngày 09/10/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về sắp xếp lại lao động trong đơn vị kinh tế quốc doanh, Bộ Y tế sẽ phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu khi nguồn ngân sách của Quỹ BHYT có kết dư nhiều và báo cáo Chính phủ về vấn đề này.

50. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Đề nghị nghiên cứu, áp dụng kinh nghiệm các nước trong xây dựng chính sách bảo hiểm y tế với mức đóng thống nhất, hưởng gói dịch vụ nhất định, đảm bảo khám, chữa bệnh chung cho mọi người để toàn dân tham gia được; đồng thời có chính sách bảo hiểm y tế với mức đóng cao theo yêu cầu để hưởng quyền lợi cao hơn khi người dân có điều kiện tham gia (Hải Dương).

Trả lời:

1. Về đề nghịquy định mức đóng và mức hưởng thống nhất trong BHYT

Trong quá trình xây dựng Luật BHYT,  Bộ Y tế và Bảo hiểm Xã hội Việt Nam đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan  thực hiện các nghiên cứu tổng quan kinh nghiệm của các nước, mời các chuyên gia quốc tế có nhiều kinh nghiệm trong xây dựng chính sách BHYT tham gia, tổ chức các đoàn thăm quan, học tập kinh nghiệm tại các nước đã thực hiện tốt chính sách BHYT. Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm trong xây dựng chính sách BHYT của các nước và điều kiện thực tế tại Việt Nam, Bộ Y tế đã dự thảo và trình Quốc hội phê duyệt Luật BHYT. Theo đó, BHYTở nước ta hiện nay là hình thức BHYT bắt buộc thực hiện trên nguyên tắc bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHYT. Mức đóng BHYT được xác định thống nhất đối với các nhóm đối tượng và được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội (sau đây gọi chung là tiền lương tháng), tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương cơ sở để đảm bảo công bằng giữa các nhóm đối tượng có thu nhập khác nhau trong xã hội. Mức hưởng BHYT là thống nhất được xây dựng trên nguyên tắc theo mức độ bệnh tật của người tham gia BHYT và đảm bảo cân bằng quỹ BHYT, bảo đảm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người tham gia BHYT và không phụ thuộc vào mức đóng BHYT. Như vậy, quy định về mức đóng, mức hưởng của Luật BHYT đã đảm bảo nguyên tắc chia sẻ rủi ro và công bằng, góp phần thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, đồng thời góp phần đảm bảo chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước.

2. Về đề nghị quy định mức đóng BHYT cao theo yêu cầu để hưởng quyền lợi cao hơn

Đối với người tham gia BHYT xã hội theo quy định của Luật BHYT thực hiện theo nguyên tắc chia sẻ rủi ro, đóng BHYT theo khả năng (hiện tại đóng theo tỷ lệ % tiền lương, lương hưu, mức lương cơ sở…), mức hưởng theo bệnh tật và theo đối tượng không phụ thuộc vào mức đóng.

Ngoài ra, người dân có thể tham gia BHYT thương mại với mức hưởng phụ thuộc vào mức đóng theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm, theo đó người tham gia BHYT thương mại đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít. Quy định này được chi phối bởi Luật kinh doanh, chứ không phải Luật Bảo hiểm Y tế.

51. Cử tri tỉnh Kiên Giang kiến nghị: Cử tri cho rằng, đến nay tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế của tỉnh Kiên Giang mới đạt 70,13%, thấp hơn so với bình quân cả nước. Trong đó, người dân tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện còn rất thấp, chưa đạt yêu cầu, do có nhiều nguyên nhân và có nguyên nhân xuất phát từ chủ trương tăng giá dịch vụ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế (Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính), trong khi giá dịch vụ khám, chữa bệnh cho người không tham gia bảo hiểm y tế thì vẫn áp dụng giá cũ, thấp hơn nhiều so với mức cùng chi trả của đối tượng có thẻ bảo hiểm y tế, nên việc vận động các đối tượng này tham gia bảo hiểm y tế đang gặp khó khăn. Đề xem xét, giải quyết vấn đề này, để thực hiện được mục tiêu toàn dân tham gia bảo hiểm y tế (Kiên Giang).

Trả lời:

Theo quy định hiện hành thì giá viện phí hiện nay mới chỉ được điều chỉnh đối với các dịch vụ y tế do bảo hiểm y tế (BHYT) chi trả, đối với dịch vụ khám chữa bệnh theo yêu cầu (do người dân tự chi trả) thì giá viện phí chưa thay đổi. Với chính sách mới này, người tham gia BHYT được hưởng lợi nhiều hơn khi đi khám chữa bệnh, bởi vì việc điều chỉnh giá viện phí sẽ góp phần làm cho chất lượng các dịch vụ y tế được nâng cao, trong khi đó người có thẻ BHYT không phải tự bỏ tiền túi để trả sự chênh lệch giá này vì đã được Quỹ BHYT thanh toán chi phí khám chữa bệnh. Từ Quý II/2017, những người không có thẻ bảo hiểm y tế sẽ phải tự trả dịch vụ y tế với giá dịch vụ y tế cao do các yếu tố cấu thành giá sẽ được tính đầy đủ trong giá viện phí.

52. Cử tri tỉnh Lào Cai kiến nghị: Cử tri phản ánh, tại điểm a, Khoản 4, Điều 7 Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 24/11/2014 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính quy định “Tổng kinh phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế tại Trạm y tế xã tối thiểu bằng 10%, tối đa không quá 20% của quỹ khám, chữa bệnh ngoại trú tính trên thẻ bảo hiểm y tế đăng ký khám, chữa bệnh …”, quy định như vậy là không phù hợp với Trạm y tế xã vùng cao. Đề nghị xem xét nâng tỷ lệ % quỹ khám, chữa bệnh tại Trạm y tế xã để góp phần giảm quá tải cho các bệnh viện tuyến trên.

Trả lời:

Bộ Y tế đã trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 105/2014/NĐ-CP ngày 15/11/2014 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo hiểm y tế, theo đó nội dung quy định tại điểm a, Khoản 4, Điều 7 Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 24/11/2014 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính sẽ được bãi bỏ, thay vào đó Nghị định quy định giao cho Trung tâm y tế hoặc bệnh viện tuyến huyện quản lý quỹ và phân bổ cho Trạm Y tế theo khả năng cung ứng dịch vụ thực tế của các Trạm Y tế.

53. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị: Đề nghị có cơ chế hỗtrợ, đầu tư trở lại cho một số địa phương có số kết dư bảo hiểm y tế để đầu tư trang thiết bị, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, … để nâng cao chất lượng phục vụ người tham gia bảo hiểm y tế.

Trả lời:

Nội dung này đã được quy định tại điểm a, khoản 3 Điều 35 của Luật bảo hiểm y tế, cụ thể:

“3. Trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có số thu bảo hiểm y tế dành cho khám bệnh, chữa bệnh lớn hơn số chi khám bệnh, chữa bệnh trong năm, sau khi được Bảo hiểm xã hội Việt Nam thẩm định quyết toán thì phần kinh phí chưa sử dụng hết được phân bổ theo lộ trình như sau:

a) Từ ngày Luật này có hiệu lực đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2020 thì 80% chuyển về quỹ dự phòng, 20% chuyển về địa phương để sử dụng theo thứ tự ưu tiên sau đây:

Hỗ trợ quỹ khám bệnh, chữa bệnh cho người nghèo; hỗ trợ mức đóng bảo hiểm y tế cho một số nhóm đối tượng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương; mua trang thiết bị y tế phù hợp với năng lực, trình độ của cán bộ y tế; mua phương tiện vận chuyển người bệnh ở tuyến huyện.

Trong thời hạn 1 tháng, kể từ ngày Bảo hiểm xã hội Việt Nam thẩm định quyết toán, Bảo hiểm xã hội Việt Nam phải chuyển 20% phần kinh phí chưa sử dụng hết về cho địa phương.

Trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày Bảo hiểm xã hội Việt Nam thẩm định quyết toán, phần kinh phí chưa sử dụng hết được chuyển về quỹ dự phòng.”

54. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị xem xét thành lập trung tâm kiểm soát quỹ bảo hiểm y tế độc lập, nhằm đảm bảo tính khách quan trong kiểm soát sử dụng quỹ bảo hiểm y tế.

Trả lời:

Việc quản lý quỹ Bảo hiểm y tế (BHYT) theo quy định của Luật BHYT đã được quy định tại Điều 34 Luật BHYT:

“1. Quỹ BHYT được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch và có sự phân cấp quản lý trong hệ thống tổ chức BHYT. Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam theo quy định của Luật BHXH chịu trách nhiệm quản lý quỹ BHYT và tư vấn chính sách BHYT.

2. Chính phủ quy định cụ thể việc quản lý quỹ BHYT; quyết định nguồn tài chính đảm bảo việc khám bệnh, chữa bệnh BHYT trong trường hợp mất cân đối thu, chi quỹ BHYT.

3. Hằng năm, Chính phủ báo cáo trước Quốc hội về quản lý và sử dụng BHYT.”

Như vậy, quỹ BHYT do BHXH Việt Nam quản lý, đây là cơ quan độc lập với Bộ Y tế.

Ngoài ra, việc kiểm soát sử dụng quỹ BHYT còn được thực hiện theo chức năng của các Bộ quản lý nhà nước như Bộ Tài chính, Bộ Y tế hoặc chức năng thanh tra, kiểm tra của các Bộ, ngành, Kiểm toán Nhà nước, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố theo thẩm quyền và cơ quan thực hiện BHYT tại Bảo hiểm xã hội theo phân cấp.

55. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Đề nghị tăng cường công tác tuyên truyền để khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm y tế, nhằm đảm bảo thực hiện thành công mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân.

Trả lời:

Để triển khai thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế (BHYT) và thực hiện thành công mục tiêu BHYT toàn dân mà Quốc hội, Chính phủ đã giao, hằng năm Bộ Y tế phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện nhiều hoạt động truyền thông, tuyên truyền về chính sách, pháp luật bảo hiểm y tế tới mọi tầng lớp nhân dân với nhiều hình thức khác nhau như:

- Tổ chức các hội nghị phổ biến chính sách, pháp luật BHYT cho các cơ quan, đoàn thể liên quan tới thực hiện chính sách BHYT, tổ chức các lớp tập huấn về chính sách và truyền thông về chính sách, pháp luật BHYT cho đội ngũ cán bộ sở y tế, các cơ sở y tế các tuyến, trung tâm truyền thông giáo dục sức khỏe các tỉnh thành phố.

- Xây dựng và thực hiện chương trình phối hợp tuyên truyền với các ban, ngành Trung ương như: Ban Tuyên giáo Trung ương, Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Ban Dân vận Trung ương … để phối hợp tuyên truyền, giải thích chính sách BHYT và vận động nhân dân tham gia BHYT.

- Thực hiện đăng các tin, bài, phóng sự về các quy định của chính sách, pháp luật BHYT, lộ trình thực hiện BHYT toàn dân trên các phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức các buổi tọa đàm, giao lưu trực tuyến về BHYThộ gia đình, quyền lợi và nghĩa vụ của người tham gia BHYT, thủ tục tham gia BHYT; tổ chức các buổi đối thoại chính sách với cộng đồng dân cư tại nhiều tỉnh, thành phố.

Ngoài ra, trong chương trình công tác hằng năm, Sở Y tế các tỉnh/thành phố và hệ thống các Cơ quan bảo hiểm xã hội từ Trung ương tới cấp tỉnh, huyện đều phối hợp với các sở, ban, ngành của địa phương thực hiện các hoạt động truyền thông, tuyên truyền về chính sách, pháp luật BHYT tới mọi tầng lớp nhân dân.

Tuy nhiên, để tiếp tục tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền về chính sách, pháp luật BHYT, trong thời gian tới Bộ Y tế sẽ tiếp tục thực hiện các hoạt động truyền thông, tuyên truyền về vai trò, ý nghĩa nhân văn của BHYTvà các quy định mới của chính sách, pháp luật BHYT, đặc biệt tại các vùng sâu, vùng xa, nhằm giúp các cấp ủy, đảng, chính quyền các cấp và mọi tầng lớp nhân dân hiểu và thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật BHYT, góp phần thực hiện thành công lộ trình BHYT toàn dân.

Cùng với ngành Y tế thì BHXH Việt Nam có trách nhiệm chính trong tổ chức tuyên truyền để mở rộng bao phủ BHYT. Vì vậy, Bộ Y tế sẽ phối hợp với BHXH Việt Nam để triển khai công tác này; đồng thời Bộ Y tế sẽ chỉ đạo Sở Y tế các tỉnh, thành phố phối hợp với bảo hiểm xã hội địa phương thực hiện truyền thông về BHYT trong công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe nhân dân, chú ý đến những đối tượng cụ thể và hình thức phù hợp với điều kiện tiếp cận thông tin của nhân dân vùng sâu, vùng xa.

56. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế có chính sách về bảo hiểm y tế cho người dân sinh sống tại vùng biển bị ảnh hưởng sau sự cố ô nhiễm môi trường biển đặc biệt nghiêm trọng vừa qua, để người dân yên tâm sản xuất, sinh sống.

Trả lời:

Trong thời qua, Bộ Y tế đã phối hợp với các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 12/QĐ-TTg ngày 06/01/2017  phê duyệt Đề án “Xác định thiệt hại, thực hiện bồi thường, hỗ trợ; khôi phục sản xuất và đảm bảo an sinh xã hội cho người dân bị ảnh hưởng do sự cố môi trường biển tại các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế” , theo Quyết định này thì người dân thuộc hộ gia đình có cá nhân có tên trong danh sách bị thiệt hại do sự cố môi trường biển được Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt sẽ được hỗ trợ phần kinh phí phải tự đóng bảo hiểm y tế BHYT(ngoài phần ngân sách nhà nước đã hỗ trợ) đối với cá nhân thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm y tế quy định tại khoản 4 Điều 12 Luật BHYT được sửa đổi bổ sung tại khoản 6 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT năm 2014; Hỗ trợ 100% kinh phí đóng BHYT đối với cá nhân thuộc đối tượng tham gia BHYT quy định tại khoản 5 Điều 12 Luật BHYT được sửa đổi bổ sung tại khoản 6 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT năm 2014. Thời gian hỗ trợ tối đa 02 năm tính từ ngày 01/01/2017 đến hết tháng 12 năm 2018.

Hiện nay, chính sách hỗ trợ đóng BHYT cho các đối tượng trên đã và đang được các Bộ, ngành và địa phương triển khai.

57. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Đề nghị xem xét, có chính sách bảo hiểm y tế đối với người dân tộc Kinh sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, nhằm tạo sự công bằng giữa các dân tộc.

Trả lời:

Người dân tộc Kinh thuộc hộ nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; người đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo hiện được Nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế(BHYT) theo quy định tại Điều 12 Luật BHYT. Cử tri của một số tỉnh cũng đề nghị cấp thẻ BHYT cho người dân sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, bất kể họ là người Kinh hay người dân tộc thiểu số.

Bộ Y tế cũng đã tham vấn ý kiến của các Bộ, ngành chức năng về vấn đề này và sẽ đề nghị với Chính phủ xem xét, trình Quốc hội.

58. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị nghiên cứu, xem xét, trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm y tế 2014 theo hướng: “Khi thực hiện mua bảo hiểm y tế theo hộ gia đình, số lượng cá nhân trong hộ đã tham gia bảo hiểm y tế theo quy định tại điểm a, Khoản 1, Điều 12 sẽ được tính để giảm dần mức đóng cho các thành viên còn lại trong hộ gia đình”. Quy định này nhằm đảm bảo sự công bằng cho những người cùng tham gia bảo hiểm y tế nhưng phải do ngân sách nhà nước chi trả, vì bản thân họ đã trích ra một phần lương tương ứng với số tiền 6% tiền lương tháng (bằng hoặc lớn hơn 6% mức lương cơ sở) tương ứng với mức đóng của người thứ nhất khi tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình.

Trả lời:

Bộ Y tế đang thu thập ý kiến, đề xuất sửa đổi một số nội dung của Luật Bảo hiểm y tế, trên cơ sở đó phối hợp với các Bộ, ngành chức năng và Bảo hiểm xã hội Việt Nam nghiên cứu, đề nghị với Chính phủ để trình Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế 2014.

59. Cử tri TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri lo lắng trước thông tin tăng giá bảo hiểm y tế, vì phần lớn các đối tượng sử dụng thẻ bảo hiểm y tế là người dân có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Đề nghị ngành y tế nghiên cứu, cân nhắc kỹ trước khi quyết định vấn đề này.

Trả lời:

Cụm từ “tăng giá bảo hiểm y tế” ở đây chắc là được sử dụng để nói về chủ trương tăng mệnh giá thẻ bảo hiểm y tế, tức là “mức đóng” bảo hiểm y tế. Bộ Y tế xin trả lời theo hướng này.

Điều 13 Luật Bảo hiểm y tế quy định mức đóng và trách nhiệm đống bảo hiểm y tế cụ thể cho từng nhóm đối tượng; theo đó mức đóng thẻ bảo hiểm y tế hiện nay được quy định tối đa bằng 6% mức lương tối thiểu/tiền công hàng tháng/lương hưu/trợ cấp,...  Với mức đóng này, người có thẻ bảo hiểm y tế được hưởng quyền lợi khám chữa bệnh theo quy định hiện hành. Nhằm khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm y tế, trong thời gian qua, Nhà nước đã mở rộng phạm vi và mức độ thụ hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế, nhiều kỹ thuật cao, chi phí lớn đã được bảo hiểm y tế thanh toán, nhiều thuốc đặc trị, thuốc hiếm được dùng trong điều trị cũng nằm trong danh mục thuốc bảo hiểm y tế thanh toán. Với mệnh giá (mức đóng) bảo hiểm y tế và sự hưởng lợi từ bảo hiểm y tế như hiện nay, nguy cơ thâm hụt quỹ là rất lớn. Đặc biệt trong thời gian qua, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về đổi mới cơ chế tài chính, xóa bỏ bao cấp qua giá dịch vụ, thực hiện lộ trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ công, trong đó có dịch vụ y tế, chi phí khám chữa bệnh được bảo hiểm y tế thanh toán đã không ngừng được tăng  lên, dẫn đến sự lo ngại về thâm hụt quỹ bảo hiểm y tế.  Thực tế cho thấy, trong nhiều năm, từ năm 2009 đến năm 2015, quỹ BHYT luôn có kết dư. Riêng năm 2016, số thu BHYT cho KCB ước là 64.242 tỷ đồng và số chi ước là 69.410 tỷ đồng (ước bội chi là 5.130 tỷ đồng). Nguyên nhân bội chi chủ yếu là do điều chỉnh giá dịch vụ y tế, sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong KCB, tăng cường chuyển giao kỹ thuật đối với tuyến dưới, mô hình bệnh tật thay đổi và một phần do thông tuyến. Đứng trước tình hình đó, nhiều Bộ, ngành đã có ý kiến đề xuất với Chính phủ về việc điều chỉnh mức đóng bảo hiểm y tế theo lộ trình. Do có số kết dư từ những năm trước được bổ sung vào quỹ dự phòng nên lũy kế đến hết năm 2016, quỹ BHYT dự phòng vẫn còn khoảng 49.000 tỷ đồng. Như vậy quỹ BHYT vẫn đảm bảo cân đối, đáp ứng nhu cầu KCB của nhân dân mà chưa cần phải điều chỉnh mức đóng BHYT trong ngắn hạn, nhưng về lâu dài, việc tính toán lại mức đóng bảo hiểm y tế có thể sẽ được đề cập đến. Có điều chắc chắn rằng, ngay cả khi mức đóng bảo hiểm y tế được điều chỉnh, thì người nghèo, thuộc diện chính sách, khó khăn,... vẫn sẽ được Nhà nước hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế.

60. Cử tri TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ Y tế chỉ đạo thống nhất về bảo hiểm y tế, nhất là đối với cán bộ nghỉ hưu có sổ khám và điều trị bệnh tại các bệnh viện lớn trực thuộc Bộ Y tế như Bệnh viện Thống Nhất, Bệnh viện Chợ Rẫy. Cụ thể như bệnh nhân được hưởng bảo hiểm y tế 100% ở Bệnh viện Thống Nhất có nhu cầu khám, điều trị bệnh ở bệnh viện chuyên khoa thì cũng được hưởng chế độ giống như ở Bệnh viện Thống Nhất, vì hiện nay vẫn còn phân biệt không đúng tuyến đăng ký bảo hiểm y tế thì không giải quyết.

Trả lời:

Việc quy định khám chữa bệnh (KCB) theo tuyến nhằm đảm bảo cho người tham gia bảo hiểm y tế(BHYT) tiếp cận dịch vụ y tế phù hợp với tình trạng bệnh lý, người bệnh sẽ được chuyển tuyến giữa các cơ sở KCB theo yêu cầu chuyên môn. Việc đăng ký KCB ban đầu theo tuyến cho người tham gia BHYT còn nhằm giảm tải cho các cơ sở KCB tuyến trên(Trung ương), phát huy hiệu quả sử dụng nguồn lực của y tế tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng quản lý sức khỏe cộng đồng.

Theo quy định của pháp luật về BHYT, hiện tại người tham gia BHYT được lựa chọn các cơ sở y tế để đăng ký KCB ban đầu tại các cơ sở y tế tuyến huyện, tuyến xã không phân biệt địa giới hành chính; còn việc đăng ký KCB ban đầu tại cơ sở y tế tuyến tỉnh, tuyến Trung ương thì theo hướng dẫn của Sở Y tế và tổ chức bảo hiểm xã hội để phù hợp với thực tế tổ chức hệ thống y tế ở địa phương và đáp ứng nhu cầu KCB của người tham gia BHYT.

Để đáp ứng nhu cầu này, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT bước đầu đã quy định: Từ 01/01/2016, đã mở thông tuyến KCB tuyến huyện, tuyến xã trong cùng địa bàn tỉnh. Theo đó, người tham gia BHYT có đăng ký KCB ban đầu ở một Trạm y tế xã hoặc một phòng khám đa khoa hoặc một bệnh viện huyện thì được quyền đi KCB ở các cơ sở KCB tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh, việc KCB BHYT người tham gia BHYT sẽ thuận lợi hơn, không bị giới hạn bởi một cơ sở KCB ban đầu mà vẫn được thanh toán theo đúng mức hưởng đã quy định.

Bộ Y tế sẽ nghiên cứu đề xuất của cử tri để bổ sung vào các văn bản hướng dẫn cho phù hợp. .

61. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Hiện nay, nhiều hộ cận nghèo, hộ gia đình nông – lâm – ngư – diêm nghiệp có mức sống dưới trung bình không có khả năng mua bảo hiểm y tế tự nguyện. Cử tri đề nghị cơ quan chức năng quan tâm, xem xét và giải quyết.

Trả lời:

Theo quy định hiện hành, người thuộc hộ gia đình cận nghèo được Nhà nước hỗ trợ 70% mức đóng, người thuộc hộ gia đình nông – lâm – ngư – diêm nghiệp có mức sống dưới trung bình được ngân sách nhà nước hỗ trợ 30% mức đóng. Nhiều địa phương đã huy động được nguồn vốn để hỗ trợ phần còn lại cho các đối tượng này phần để mua thẻ BHYT.

62. Cử tri tỉnh Tuyên Quang kiến nghị: Đề nghị cho các đối tượng cán bộ là người dân tộc thiểu số đang công tác ở Hợp tác xã, hiện đã đóng bảo hiểm y tế được chuyển sang hưởng chế độ bảo hiểm y tế dành cho người dân tộc thiểu số.

Trả lời:

Luật bảo hiểm y tế (BHYT), đối tượng cán bộ là người dân tộc thiểu số đang công tác ở Hợp tác xã là đối tượng người lao động, có lương, vì vậy, đối tượng này tham gia BHYT theo nhóm người lao động và người sử dụng lao động đóng. Nếu đối tượng này là người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; người đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì sẽ được hưởng quyền lợi BHYTcủa nhóm đối tượng này.

63. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri đề nghị khi phát hiện các cơ sở sản xuất thuốc tân dược giả, phải thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, để nhân dân biết và phòng tránh.

Trả lời:

Qua kiểm tra hậu mại, giám sát chất lượng thuốc trên thị trường, khi phát hiện thuốc vi phạm chất lượng, thuốc giả, Bộ Y tế đều đăng tải công khai trên Website của Cục Quản lý Dược Công văn thông báo vi phạm, các dấu hiện nhận biết thuốc giả và gửi cho Sở Y tế địa phương để thông báo cho các cơ sở kinh doanh, sử dụng thuốc không được buôn bán, sử dụng thuốc có các dấu hiệu nhận biết “giả” và yêu cầu Sở Y tế phối hợp với các cơ quan truyền thông thông tin địa phương tới cơ sở bán buôn, sử dụng thuốc và người dân biết để không buôn bán, sử dụng.

Đối với các trường hợp vi phạm nghiêm trọng, Bộ Y tế sẽ gửi Công văn “khẩn” thông báo tới các cơ quan  báo chí, truyền thông Trung ương thông tin tới cơ sở sản xuất, kinh doanh, sử dụng thuốc toàn quốc và người dân biết để không buôn bán, sử dụng. Đồng thời, phối hợp các cơ quan chức năng như Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường kiểm tra, điều tra, xác minh, xử lý vi phạm. Trong các năm 2015- 2016, Cục Quản lý Dược đã thông báo các trường hợp thuốc giả: Thuốc SEPY-O-200 (nhãn ghi do Công ty Sakar Heathcare Pvt. Ltd., India sản xuất; thuốc Tablets Ciproxacin 500 (hoạt chất Ciproxacin 500mg) do Công ty Lenno Limited, 7 Fairclough Road, Port Elizabeth 6001 sản xuất,…

Các quy định về thông tin, cảnh báo chất lượng thuốc, phòng chống thuốc giả cũng đã được luật hóa tại điểm đ khoản 4 và khoản 5 Điều 64 Luật Dược mới được Quốc hội thông qua năm 2016, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017:

- Công bố thông tin về thuốc bị thu hồi trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Y tế, Đài truyền hình Việt Nam và Đài tiếng nói Việt Nam đối với trường hợp thu hồi thuốc vi phạm ở mức độ 1 ngay sau khi có quyết định thu hồi thuốc.

- Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam có trách nhiệm công bố thông tin về thu hồi thuốc vi phạm ở mức độ 1 và không thu phí.      

Do đó, thuốc giả, thuốc vi phạm chất lượng mức độ 1 sẽ được thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để dân biết và phòng tránh.

Như vậy, với quy định trong Luật Dược 2016 sẽ có đủ cơ sở pháp lý để thực hiện đề nghị của cử tri tỉnh An Giang nêu ra.

64. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế có chính sách phù hợp để tăng cường đầu tư và thu hút đầu tư phát triển ngành Dược Việt Nam, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước nghiên cứu, phát triển và sản xuất các mặt hàng nội địa để nâng cao chất lượng thuốc, tạo điều kiện để người dân được sử dụng thuốc với giá thành thấp.

Trả lời:

Ngành Công nghiệp Dược Việt Nam là một ngành công nghiệp có bề dày lịch sử. Để tăng cường đầu tư và thu hút đầu tư phát triển ngành công nghiệp Dược Việt Nam, Nhà nước và Chính phủ đã có nhiều chính sách đầu tư nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư; khuyến khích và ưu đãi đầu tư đối với cả các đối tượng là nhà đầu tư trong nước lẫn nhà đầu tư nước ngoài trên Lãnh thổ Việt Nam. Các ưu đãi đã được quy định cụ thể tại Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và Nghị định hướng dẫn; Luật Đầu tư 2014 và Nghị định hướng dẫn cũng như Luật Dược 2016, cụ thể:

* Trong Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 đã xem xét, đề cập đến các chính sách ưu đãi của các dự án đầu tư trong lĩnh vực dược như: Khám bệnh, chữa bệnh; sản xuất thuốc, nguyên liệu làm thuốc, thuốc chủ yếu, thuốc thiết yếu, thuốc phòng, chống bệnh xã hội, vắc xin, sinh phẩm y tế, thuốc từ dược liệu, thuốc đông y; nghiên cứu khoa học về công nghệ bào chế, công nghệ sinh học để sản xuất các loại thuốc mới;

Theo đó Nghị định số 118/2016/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ quy định một số điều chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư đã cụ thể:

Lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư: (1) Nghiên cứu khoa học về công nghệ bào chế, công nghệ sinh học để sản xuất các loại thuốc mới; (2) Sản xuất nguyên liệu làm thuốc và thuốc chủ yếu, thuốc thiết yếu, thuốc phòng, chống bệnh xã hội, vắc xin, sinh phẩm y tế, thuốc từ dược liệu, thuốc đông y; thuốc sắp hết hạn bằng sáng chế hoặc các độc quyền có liên quan; ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ sinh học để sản xuất thuốc chữa bệnh cho người đạt tiêu chuẩn GMP quốc tế; sản xuất bao bì trực tiếp tiếp xúc với thuốc; (3) Đầu tư cơ sở sản xuất Methadone.

Lĩnh vực ưu đãi đầu tư: (1) Sản xuất nguyên liệu làm thuốc; (2) Đầu tư cơ sở thử nghiệm sinh học, đánh giá sinh khả dụng của thuốc; cơ sở dược đạt tiêu chuẩn thực hành tốt trong sản xuất, bảo quản, kiểm nghiệm, thử nghiệm lâm sàng thuốc; (3) Đầu tư nghiên cứu chứng minh cơ sở khoa học của bài thuốc Đông y, thuốc cổ truyền và xây dựng tiêu chuẩn kiểm nghiệm bài thuốc Đông y, thuốc cổ truyền.

* Trong Luật Dược số 105/2016/QH13 mới ban hành năm 2016 đã quy định các chính sách của Nhà nước về lĩnh vực dược và phát triển công nghiệp dược (Chương II) trong đó những chính sách hàng đầu như:

- Ưu đãi đầu tư sản xuất thuốc, nguyên liệu làm thuốc, thuốc thiết yếu, thuốc phòng, chống bệnh xã hội, vắc xin, sinh phẩm, thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền, thuốc hiếm; ưu đãi nghiên cứu khoa học về công nghệ bào chế, công nghệ sinh học để sản xuất các loại thuốc mới.

- Kết hợp đầu tư ngân sách nhà nước với huy động các nguồn lực khác cho phát triển công nghiệp sản xuất vắc xin, sinh phẩm, thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền, thuốc sắp hết hạn bằng sáng chế hoặc độc quyền có liên quan; nuôi trồng, sản xuất dược liệu; phát hiện, bảo tồn và ứng dụng khoa học công nghệ trong nghiên cứu, phát triển nguồn gen dược liệu quý, hiếm, đặc hữu.

- Khuyến khích chuyển giao công nghệ trong sản xuất thuốc; phát triển mạng lưới lưu thông phân phối, chuỗi nhà thuốc, bảo quản và cung ứng thuốc; khuyến khích nhà thuốc, quầy thuốc hoạt động 24/24 giờ.

Ngày 10/01/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 68/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Dược, trong đó nêu rõ mục tiêu cụ thể đến năm 2020: Thuốc sản xuất trong nước cơ bản đáp ứng nhu cầu sử dụng, sản xuất được thuốc chuyên khoa đặc trị, chủ động sản xuất vắc xin, sinh phẩm cho phòng chống dịch bệnh, sản xuất được nguyên liệu làm thuốc: Phấn đấu sản xuất được 20% nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất thuốc trong nước, thuốc sản xuất trong nước chiếm 80% tổng giá trị thuốc tiêu thụ trong năm, trong đó thuốc từ dược liệu chiếm 30%; vắc xin sản xuất trong nước đáp ứng 100% nhu cầu cho tiêm chủng mở rộng và 30% nhu cầu cho tiêm chủng dịch vụ kèm theo Danh mục các dự án tập trung đầu tư, Danh mục các dự án ưu đãi đầu tư. Đây có thể coi là bản quy hoạch để doanh nghiệp trong nước nghiên cứu và đầu tư vào ngành công nghiệp dược một cách hiệu quả nhất.

2. Để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, Bộ Y tế cũng có nhiều chính sách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được kinh doanh trong môi trường thuận lợi:

- Về thực hiện đăng ký thuốc: Quy định cụ thể thời gian tối đa xét duyệt số đăng ký, chính sách xét duyệt nhanh với các doanh nghiệp mới, ưu tiên về trình tự, thủ tục đăng ký lưu hành thuốc generic ngay khi hết hạn bằng sáng chế hoặc độc quyền có liên quan, sinh phẩm tương tự đầu tiên, đăng ký lưu hành, cấp phép nhập khẩu thuốc hiếm, vắc xin đã được Tổ chức Y tế Thế giới tiền thẩm định.

- Về đấu thầu thuốc: Luật Dược năm 2016 đưa ra các ưu đãi cụ thể các trường hợp thuốc mua từ ngân sách nhà nước.

- Không chào thầu thuốc nhập khẩu thuộc danh mục do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành trên cơ sở nhóm tiêu chí kỹ thuật khi thuốc sản xuất trong nước đáp ứng yêu cầu về điều trị, giá thuốc và khả năng cung cấp.

Ưu tiên mua thuốc generic, sinh phẩm tương tự đầu tiên sản xuất trong nước được cấp giấy đăng ký lưu hành tại Việt Nam; thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền được sản xuất từ nguồn dược liệu trong nước; thuốc có sử dụng dược chất, tá dược, vỏ nang hoặc bao bì tiếp xúc trực tiếp với thuốc được sản xuất bởi cơ sở trong nước đạt tiêu chuẩn Thực hành tốt trong sản xuất; dược liệu tươi; thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền được sản xuất trên cơ sở nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia, cấp bộ hoặc cấp tỉnh.

-  Không chào thầu dược liệu nhập khẩu thuộc danh mục do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành khi dược liệu được nuôi trồng, thu hái trong nước đáp ứng yêu cầu về điều trị và khả năng cung cấp, giá hợp lý.

- Ưu tiên mua thuốc thuộc Danh mục sản phẩm quốc gia.

Tại Thông tư số 11/2016/TT-BYT hướng dẫn đấu thầu thuốc, cũng ưu tiên phân 1 nhóm riêng cho các thuốc sản xuất trong nước để việc đấu thầu các thuốc trong nước tránh được nhiều bất lợi về giá, xuất xứ.

Ngoài các chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư, Bộ Y tế đẩy mạnh công tác tăng cường kiểm tra, kiểm soát thuốc kém chất lượng, thuốc giả và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm cũng như áp dụng những biện pháp cứng rắn và có hiệu quả nhằm đảm bảo chất lượng thuốc lưu hành trên thị trường. Tỷ lệ thuốc kém chất lượng và thuốc giả đã giảm dần theo các năm gần đây, hạn chế những thuốc nước ngoài không đạt chất lượng vào thị trường Việt Nam nhằm tạo điều kiện phát triển cho thuốc sản xuất trong nước đạt chất lượng cao.

Các chính sách trên đều với mục đích tăng cường chất lượng thuốc, hiệu quả điều trị và giảm chi phí cho người sử dụng thuốc cũng như phát triển các lợi thế sẵn có đối với công nghiệp dược nội địa, qua đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước nghiên cứu phát triển và sản xuất để nâng cao chất lượng thuốc, tạo điều kiện để người dân được sử dụng thuốc với giá thành thấp.

Như vậy, Bộ Y tế đã chủ động xây dựng để ban hành hoặc dự thảo trình Quốc hội và Chính phủ để ban hành chính sách, văn bản quy phạm pháp luật để tăng cường đầu tư, thu hút đầu tư nhằm phát triển công nghiệp dược trong nước và nâng cao chất lượng thuốc phục vụ nhu cầu điều trị của nhân dân.

65. Cử tri tỉnh Lâm Đồng kiến nghị: Năm 2014 – 2015, Bộ Y tế đã cho nhập khẩu hơn 9 tấn salbutamol để phục vụ cho việc sản xuất thuốc và điều trị bệnh, nhưng đã có việc lợi dụng salbutamol để sử dụng vào mục đích tạo nạc trong chăn nuôi. Đề nghị Bộ Y tế siết chặt quản lý, ngừng cấp hạn ngạch và xử lý nghiêm các trường hợp nhập lậu, sử dụng sai mục đích.

Trả lời:

Thuốc chứa hoạt chất Salbutamol là thuốc thuộc danh mục thuốc thiết yếu, đặc biệt cần thiết trong điều trị và chẩn đoán các bệnh hô hấp như thăm dò chức năng hô hấp, điều trị cơn hen, ngăn cơn co thắt phế quản gắng sức... xảy ra phổ biến ở nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa như Việt Nam. Việc cho phép nhập hoạt chất này để sản xuất thuốc chữa bệnh cho người là rất cần thiết.

Ngay sau khi có thông tin về việc có hiện tượng lạm dụng nguyên liệu làm thuốc Salbutamol trong chăn nuôi, Bộ Y tế đã có những biện pháp tức thời cũng như lâu dài để "siết chặt quản lý", cụ thể như sau:

1. Các biện pháp tức thời

Bộ Y tế đã yêu cầu tạm ngừng nhập khẩu nguyên liệu Salbutamol (trên cơ sở số lượng nguyên liệu tồn kho theo báo cáo của các đơn vị vẫn đảm bảo sản xuất thuốc cho nhu cầu điều trị của nhân dân), có cung cấp thông tin và đề nghị phối hợp với các cơ quan liên quan (Tổng Cục Hải Quan, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (C49), Bộ Công an, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) để phối hợp tăng cường kiểm tra, giám sát.

Bộ Y tế đã tiến hành độc lập cũng như phối hợp với Bộ Công An để kiểm tra toàn bộ các cơ sở có nhập khẩu nguyên liệu salbutamol, sản xuất thuốc từ nguyên liệu này. Đối với các đơn vị vi phạm bị phát hiện đã bị xử lý với chế tài cao nhất theo quy định của pháp luật: Ban hành quyết định đình chỉ hoạt động kinh doanh thuốc, tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc, ngừng xem xét, tiếp nhận hồ sơ xuất nhập khẩu thuốc; đề nghị Sở Y tế địa phương thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc, nguyên liệu làm thuốc của các đơn vị vi phạm; chuyển 03 trường hợp vi phạm để C49 Bộ công an điều tra, giải quyết theo thẩm quyền.

2. Bên cạnh những biện pháp tức thời ngăn chặn ngay những vi phạm, Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Bộ Công an để có những biện pháp quản lý lâu dài

Sửa đổi Văn bản quy phạm pháp luật:

- Bộ Y tế đã tham mưu và đưa việc quản lý các nguyên liệu làm thuốc bị cấm sử dụng ở các ngành khác (trong đó có Salbutamol) vào danh mục thuốc phải kiểm soát đặc biệt tại Luật Dược 2016 và đã được Quốc hội thông qua. Theo đó, các nguyên liệu thuộc danh mục này để được kinh doanh, sản xuất cần phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh chặt chẽ. Việc thực hiện xuất, nhập khẩu, kinh doanh các nguyên liệu thuộc danh mục này cũng phải cấp phép và giám sát chặt chẽ tương tự các thuốc gây nghiện, hướng tâm thần, tiền chất dùng làm thuốc và thuốc phóng xạ.

- Bộ Y tế cũng đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, bổ sung và tăng nặng chế tài đối với hành vi bán nguyên liệu làm thuốc cho các cơ sở không có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc phù hợp khi chưa được sự đồng ý của Cơ quan quản lý nhà nước về y tế có thẩm quyền.

Để đảm bảo quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu, kinh doanh và sử dụng nguyên liệu làm thuốc có nguy cơ bị lạm dụng. Các đơn vị chức năng của Bộ Y tế và Bộ Công an cũng như giữa Bộ Y tế và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có nhiều buổi làm việc và đã tiến hành ký kết các Quy chế phối hợp để phối hợp chặt chẽ hơn và cùng đưa ra những giải pháp thích hợp trong quản lý.

Cụ thể, sau một thời gian tạm ngừng nhập khẩu nguyên liệu Salbutamol, tăng cường các biện pháp quản lý. Từ tháng 11/2015 đến nay, các doanh nghiệp sản xuất thuốc, bán buôn nguyên liệu làm thuốc đã nghiêm túc thực hiện, đáp ứng đúng các quy định về sản xuất, kinh doanh nguyên liệu làm thuốc.

Đặc biệt trong 6 tháng cuối năm 2016, kết quả giám sát trên diện rộng do các cơ quan thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiến hành, không phát hiện Salbutamol trong các mẫu thịt kiểm nghiệm (Theo báo cáo tại hội nghị giao ban trực tuyến với 63 tỉnh thành về tổng kết công tác vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2016 và phát động kế hoạch năm 2017).

66. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Hiện nay, thị trường thực phẩm chức năng đã phát triển mạnh, có sản phẩm sản xuất trong nước, có sản xuất nhập khẩu từ các nước như Mỹ, Hàn Quốc, Úc, Nhật, Trung Quốc, … và có một số sản phẩm không rõ xuất xứ, không đảm bảo an toàn cho người sử dụng.

Đề nghị tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các cơ sở sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh thực phẩm chức năng; đồng thời xử lý nghiêm các cơ sở vi phạm và công bố công khai cơ sở vi phạm trên phương tiện thông tin đại chúng cho cử tri được biết.

Trả lời:

1. Về tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các cơ sở sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh thực phẩm chức năng

- Hàng năm Bộ Y tế xây dựng và trình Ban Chỉ đạo liên ngành Trung ương về VSATTP ban hành kế hoạch thanh tra, kiểm tra liên ngành về an toàn thực phẩm, trong đó đều có nội dung thanh kiểm tra về thực phẩm chức năng. Các các cuộc thanh tra, kiểm tra liên ngành đều được hoàn thành, đảm bảo chất lượng. Bên cạnh đó, Bộ Y tế cũng lồng ghép các nội dung thanh tra về an toàn thực phẩm mà cụ thể là thực phẩm chức năng vào các Kế hoạch thanh tra công tác y tế hàng năm, Kế hoạch thanh kiểm tra của Ban Chỉ đạo 389 Bộ Y tế.

- Trong năm 2016, Bộ Y tế ban hành Kế hoạch 693/KH-BYT ngày 14/7/2016 về thực hiện Chỉ thị 13/CT-TTg ngày 09/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường trách nhiệm quản lý Nhà nước về An toàn thực phẩm, trong đó tập trung thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về “siết chặt quản lý việc sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu thực phẩm chức năng, chất bảo quản, phụ gia thực phẩm”.

- Bộ Y tế cũng đã có công văn số 2362/BYT-ATTP ngày 27/4/2016 về việc tăng cường quản lý bảo đảm an toàn thực phẩm, chỉ đạo các đơn vị chức năng ở Trung ương và địa phương tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định về an toàn thực phẩm đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu, quảng cáo thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của Bộ Y tế, kể từ tháng 5 năm 2016 chủ yếu áp dụng thanh tra hoặc kiểm tra theo hình thức đột xuất.

- Để tăng cường hơn nữa về công tác quản lý thực phẩm chức năng, hiện nay Bộ Y tế đang xây dựng dự thảo Nghị định về quản lý thực phẩm chức năng, dự kiến ban hành trong năm 2017.

2. Về tình hình xử phạt vi phạm hành chính về thực phẩm chức năng

Trong năm 2016, Bộ Y tế (Cục An toàn thực phẩm) đã tiến hành xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm liên quan đến thực phẩm chức năng đối với 86 cơ sở vi phạm, với số tiền 5.362.278.918đ. Nội dung xử phạt chủ yếu liên quan đến chất lượng sản phẩm, sai phạm trong quảng cáo thực phẩm chức năng, các quy định về kiểm nghiệm định kỳ (trong đó có cả các trường hợp không kiểm nghiệm, sử dụng giấy kiểm nghiệm giả), các quy định về ghi nhãn thực phẩm chức năng, sản xuất trong điều kiện không đảm bảo các quy định về an toàn thực phẩm.

Bộ Y tế cũng công khai các thông tin về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm nói chung và về thực phẩm chức năng nói riêng trên website chính thức của Cục An toàn thực phẩm – Bộ Y tế: http://www.vfa.gov.vn

67. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế kiểm soát chặt chẽ đối với giá thuốc đầu vào, đầu ra tại các bệnh viện, nhất là các bệnh viện tuyến trung ương, tuyến tỉnh, tránh tình trạng cùng một loại thuốc nhưng giá thuốc tại các bệnh viện lại khác nhau, gây khó khăn, thiệt hại cho người bệnh.

Trả lời:

Hiện tại, trên cả nước có 56 tỉnh, thành phố tổ chức đấu thầu tập trung cấp địa phương và 44 bệnh viện, viện có giường bệnh trực thuộc Bộ Y tế tổ chức đấu thầu vào thời điểm khác nhau, điều kiện giao hàng, khoảng cách địa lý, số lượng mua sắm khác nhau… nên có hiện tượng giá thuốc trúng thầu khác nhau giữa các cơ sở y tế. Tuy nhiên, việc chênh lệch giá bất hợp lý của cùng mặt hàng tại một số cơ sở khám chữa bệnh khác nhau là trường hợp cá biệt, qua công tác thanh tra, kiểm tra nếu phát hiện sẽ xử lý nghiêm theo quy định.

Với việc ban hành các văn bản mới về đấu thầu thuốc, theo đó đã quy định việc phân chia gói thầu theo từng nhóm theo tiêu chuẩn kỹ thuật, công nghệ và bảng điểm chấm thầu thống nhất toàn quốc đã đảm bảo sự công khai, minh bạch và cạnh tranh công bằng trong đấu thầu, qua đó hạn chế tối đa hiện tượng chênh lệch giá bất hợp lý giữa các cơ sở y tế.

Để khắc phục hơn nữa việc chênh lệch giá thuốc, Bộ Y tế ban hành Thông tư số 11/2016/TT-BYT ngày 11/5/2016 hướng dẫn đấu thầu mua thuốc trong các cơ sở y tế công lập trong đó triển khai đàm phán giá và đấu thầu thuốc tập trung cấp quốc gia; Thông tư số 09/2016/TT-BYT ngày 05/5/2016 của Bộ Y tế trong đó quy định danh mục thuốc đấu thầu tập trung và danh mục thuốc được áp dụng hình thức đàm phán giá.

Để triển khai đàm phán giá và đấu thầu thuốc tập trung cấp Quốc gia, Bộ Y tế đã có văn bản báo cáo và đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập trung tâm Mua sắm tập trung thuốc Quốc gia trực thuộc Bộ Y tế tại Nghị quyết số 112/NQ-CP ngày 30/12/2016 của Chính phủ. Hiện tại, Bộ Y tế đang khẩn trương tập trung nguồn lực để Trung tâm này đi vào hoạt động ngay trong tháng 02/2017.

Với việc triển khai đồng bộ các quy định nêu trên, trong thời gian tới sẽ khắc phục triệt để hơn nữa tình trạng chênh lệch giá tại các cơ sở y tế.

68. Cử tri tỉnh Bình Phước, Quảng Ngãi kiến nghị: Cử tri phản ánh, nhân lực y tế trên địa bàn các tỉnh miền núi, biên giới, các tỉnh khó khăn hiện tại đang thiếu, nhất là thiếu bác sĩ. Mặc dù, các tỉnh này đã có những chính sách đãi ngộ nhằm thu hút bác sĩ có chất lượng cao về công tác, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Đề nghị Bộ Y tế phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo phân bổ cho các tỉnh này nhiều chỉ tiêu đào tạo bác sĩ theo địa chỉ sử dụng để đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân.

Trả lời:

Nhu cầu bác sĩ và dược sĩ (đại học) được nhiều tỉnh, thành phố đề xuất với Bộ Y tế từ nhiều năm do vai trò quan trọng của họ trong hệ thống chăm sóc sức khỏe nhân dân. Để giải quyết tình trạng này, từ năm 2000, chỉ tiêu tuyển bác sĩ, dược sĩ đại học đã được tăng lên dần và đạt đến mức tối đa so với năng lực đào tạo của các trường.

Theo số liệu báo cáo của các cơ sở đào tạo, năm 2015 và 2016, mỗi năm toàn quốc có khoảng 8.000 bác sĩ các loại ra trường. Năm 2015 toàn quốc có hơn 10.000 bác sĩ các loại nhập học, chỉ tiêu của 2016 tiếp tục là gần 11.000 bác sĩ.

Đối với dược sĩ đại học, năm 2015 có khoảng gần 3.000 dược sĩ ra trường, năm 2016 có gần 3.500 dược sĩ ra trường. Số lượng nhập học sinh viên dược đại học năm 2015 là hơn 8.000 sinh viên và là gần 9.000 ở năm 2016.

Qua số liệu trên có thể thấy, chỉ tiêu đào tạo bác sĩ, dược sĩ đại học hiện nay rất lớn. Số lượng bác sĩ, dược sĩ ra trường sẽ tiếp tục tăng đáng kể trong các năm tới và có thể cung cấp đủ bác sĩ, dược sĩ đại học cho hệ thống y tế.

Số chỉ tiêu hiện nay có thể nói đã ở mức tối đa so với năng lực của các cơ sở đào tạo. Việc tiếp tục tăng chỉ tiêu sẽ dẫn tới tình trạng chất lượng đào tạo tiếp tục giảm và chất lượng nhân lực y tế sẽ bị ảnh hưởng.

Trong thời gian qua, để hỗ trợ các tỉnh, thành thuộc các khu vực khó khăn, theo thẩm quyền được giao, Bộ Y tế đã có văn bản gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo ủng hộ bố trí chỉ tiêu đào tạo theo địa chỉ nhân lực y tế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đào tạo theo địa chỉ chỉ góp phần tăng số lượng và chưa tăng được chất lượng dịch vụ y tế. Đồng thời, ở nhiều địa phương, những người được gửi đi đào tạo theo hình thức địa chỉ sử dụng đã bỏ việc, xin về tuyến trên hoặc các vùng phát triển hơn, tạo ra sự bất bình đẳng trong tuyển sinh.

Bộ Y tế nhận thấy giải pháp đào tạo chỉ là một phần trong các giải pháp nhằm tăng số lượng bác sĩ, dược sĩ công tác tại mỗi địa phương. Để có thể tăng cường cả chất lượng và số lượng đội ngũ nhân lực y tế, các địa phương cần chú trọng các giải pháp, cơ chế về tuyển dụng, sử dụng.

69. Cử tri tỉnh Bạc Liêu kiến nghị: Cử tri cho rằng, bác sĩ học liên thông về phải thực tập tại bệnh viện 18 tháng mới được khám, chữa bệnh là không hợp lý, vì trường hợp y sĩ đã được khám, chữa bệnh, nhưng khi đi học nâng cao kiến thức phải thực tập 18 tháng mới được hành nghề. Đề nghị xem xét lại quy định này cho phù hợp.

Trả lời:

Trước hết, Bộ Y tế xin khẳng định ở mỗi cấp học thì chương trình và thời gian đào tạo được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định rất khác nhau. Các y sỹ dù đã công tác đúng chuyên ngành trong nhiều năm nhưng thời gian đào tạo về kỹ thuật, kiến thức chỉ trong 2 năm, không thể so sánh với trình độ của bác sỹ (được đào tạo trong 6 năm). Vì vậy, bác sỹ học liên thông sau khi tốt nghiệp và cấp bằng bác sỹ vẫn cần phải được thực tập 18 tháng như các bác sỹ mới ra trường được đào tạo chính quy trước khi được cấp chứng chỉ hành nghề để đảm bảo chất lượng khám chữa bệnh.

70. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo kiểm soát chỉ tiêu, chất lượng đào tạo đối với đội ngũ y, bác sỹ hiện nay, đảm bảo phù hợp với yêu cầu thực tiễn, tránh lãng phí, do hệ cao đẳng, trung cấp quá nhiều, trong khi bác sĩ được đào tạo quá ít; đồng thời xem xét mở ngành đào tạo bác sĩ tâm lý lâm sàng, nhằm đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh tại các bệnh viện tâm thần; có chính sách đặc thù và cơ chế bảo vệ đối với y, bác sĩ công tác tại bệnh viện tâm thần, vì có nguy cơ tai nạn nghề nghiệp cao.

Trả lời:

1. Vấn đề chỉ tiêu đào tạo và chất lượng cán bộ y tế

Theo các qui định hiện hành, các cơ sở đào tạo sẽ tự xác định chỉ tiêu đào tạo dựa trên các điều kiện của mình và Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan xem xét, chấp nhận chỉ tiêu đó.

Tuy nhiên, Bộ Y tế luôn quan tâm tới chất lượng đào tạo và chỉ tiêu đào tạo hàng năm của các trường. Bộ Y tế cũng đã nhận thấy qui mô đào tạo trung cấp và cao đẳng rất lớn, vượt xa nhu cầu của hệ thống y tế công và tư hiện nay. Kể cả bậc đại học, sau một thời gian không ngừng tăng quy mô đào tạo và thêm các trường mới được thành lập, được đào tạo các mã ngành thuộc khối ngành sức khỏe, những năm gần đây bắt đầu xuất hiện tình trạng dư thừa cả bác sĩ, dược sĩ mới ra trường. Với qui mô đào tạo lớn như vậy, chất lượng đào tạo chắc chắn bị ảnh hưởng. Bộ Y tế đã có trao đổi với Bộ Giáo dục và Đào tạo về quy mô đào tạo trung cấp, cao đẳng và đại học.

Để đảm bảo chất lượng đào tạo, Bộ Y tế cũng đã và đang phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo giám sát đào tạo, xây dựng các tiêu chuẩn, tiêu chí cho đánh giá các chương trình đào tạo khối ngành khoa học sức khỏe. Đồng thời, Bộ Y tế đã xây dựng và ban hành chuẩn năng lực nghề nghiệp cho bác sĩ đa khoa, điều dưỡng, hộ sinh, bác sĩ răng hàm mặt để làm cơ sở phát triển các chương trình đào tạo, kiểm soát chất lượng đào tạo. Hiện nay, Bộ Y tế đang chủ trì xây dựng Nghị định “quy định về điều kiện thực hành và chi phí thực hành trong đào tạo nhân lực y tế”, một nhân tố góp phần quyết định nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực y tế. Bản dự thảo đang được trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và phê duyệt.

Đối với chuyên ngành tâm lý lâm sàng, Bộ Y tế nhận thấy đây là một ngành quan trọng cần được phát triển trong các bệnh viện. Bộ Y tế sẽ làm việc với các trường, bệnh viện nghiên cứu, khảo sát nhu cầu thực tế để có thể xây dựng chương trình đào tạo phù hợp.

2. Về chính sách đặc thù cho cán bộ y tế

Việc thực hiện các chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, viên chức ngành y tế trong thời gian qua đã được Đảng và Chính phủ quan tâm. Chính phủ đã ban hành một số chế độ phụ cấp đối với cán bộ, viên chức ngành y tế như: phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp độc hại, nguy hiểm, phụ cấp đặc thù và phụ cấp chống dịch, chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật; đối với cán bộ, viên chức công tác tại vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn được hưởng phụ cấp thu hút, trợ cấp tham quan, học tập, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ,… Đối với cán bộ, viên chức ngành y tế công tác tại các bệnh viện tâm thần được hưởng các chế độ phụ cấp theo quy định và được hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề mức cao nhất bằng 70% mức lương theo chức danh nghề nghiệp, bậc lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có).

71. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Đề nghị ngành Y tế cần có chính sách về nguồn nhân lực y tế, trong đó ưu tiên đào tào đội ngũ cán bộ y tế có trình độ chuyên môn cao.

Trả lời:

Bộ Y tế đã làm việc với Bộ Giáo dục và Đào tạo để từng bước thể chế hóa các quy định liên quan đến đào tạo nhân lực y tế trong đó có ưu tiên đào tạo nhân lực trình độ cao, cụ thể là:

- Rà soát và thống nhất triển khai Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam theo Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011, Quy hoạch phát triển nhân lực y tế theo Quyết định số 816/QĐ-BYT ngày 16/2/2012.

- Về mở ngành đào tạo: Bộ Y tế đã có công văn đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉnh sửa, bổ sung các quy định cụ thể đối với đào tạo nhân lực y tế. Để chuẩn bị cho nội dung này, hai Bộ đã thống nhất tạm thời không giao nhiệm vụ đào tạo mới cho các cơ sở đào tạo đa ngành đối với bác sĩ (các ngành Y đa khoa, Y học cổ truyền, Răng Hàm Mặt) và dược sĩ đại học; đối với các ngành và trình độ còn lại, Bộ Y tế xem xét đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo nếu phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực. Bộ Y tế cũng đã nhiều lần đề xuất với Bộ Giáo dục và Đào tạo và cơ quan cấp trên về việc dừng đào tạo liên thông, theo địa chỉ sử dụng bác sĩ, dược sĩ đại học.

- Về xác định chỉ tiêu đào tạo: Bộ Y tế đề nghị cần xác định chỉ tiêu dựa trên năng lực chuyên môn hiện có, đặc biệt là số giảng viên chuyên ngành.

- Về các điều kiện để đảm bảo chất lượng: Có kế hoạch xây dựng các chuẩn năng lực cơ bản cho các ngành đào tạo, xây dựng tiêu chí và bộ công cụ kiểm định chất lượng đào tạo; có định hướng cho các cơ sở đào tạo xây dựng chương trình đào tạo theo hướng đổi mới và hội nhập dựa trên năng lực; xây dựng và ban hành các điều kiện chuyên môn của cơ sở thực hành ngoài trường, ... đặc biệt là đối với các cơ sở đào tạo đa ngành ngoài công lập.

- Hiện đang trình Thủ tướng Chính phủ xem xét ban hành Nghị định quy định về việc kết hợp giữa cơ sở đào tạo và cơ sở thực hành trong đào tạo nhân lực y tế.

72. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Theo Thông tư 41/2011/TT-BYT ngày 14/11/2011 của Bộ Y tế, việc chụp X-Quang, siêu âm, xét nghiệm phải do bác sĩ chuyên khoa thực hiện. Tuy nhiên, ở các bệnh viện thiếu các bác sĩ chuyên khoa này, trong khi các điều dưỡng, y sĩ, cử nhân thực hiện thay dẫn đến mâu thuẫn là trong khi các bác sĩ chuyên khoa không làm trực tiếp nhưng phải ký chịu trách nhiệm các giấy tờ theo quy định.

Đề nghị Bộ Y tế xem xét trường hợp các địa phương thiếu bác sĩ chuyên khoa này, thì cho những người có trình độ cử nhân, được đào tạo ngắn hạn, có những kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực này nhiều năm, được lãnh đạo bệnh viện hoặc Sở Y tế cho phép thì được hoạt động ở những chuyên khoa của mình thay cho bác sĩ.

Trả lời:

Ngày 01/7/2016 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109/2016/NĐ-CP quy định cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Theo đó tại điểm c khoản 2 Điều 5 quy định những đối tượng có ”Văn bằng cử nhân hóa học, sinh học, dược sĩ trình độ đại học và có chứng chỉ hoặc giấy chứng nhận đào tạo chuyên ngành kỹ thuật y học về xét nghiệm với thời gian đào tạo ít nhất là 3 tháng hoặc văn bằng đào tạo sau đại học về chuyên khoa xét nghiệm” đồng thời đáp ứng các điều kiện khác để cấp chứng chỉ hành nghề thì được cấp chứng chỉ hành chuyên khoa xét nghiệm. Những người này được phép ký các giấy tờ liên quan đến xét nghiệm. Tại điểm đ và e, khoản 5, điều 23 quy định: Kỹ thuật viên xét nghiệm có trình độ đại học được đọc và ký kết quả xét nghiệm. Trường hợp cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không có bác sỹ chuyên khoa xét nghiệm thì bác sỹ chỉ định xét nghiệm kết luận chẩn đoán.

Như vậy các đối tượng có trình độ là cử nhân sinh học, hóa học, dược sỹ đại học nếu đáp ứng được các yêu cầu quy định tại Điều 5 Nghị định 109/2016/NĐ-CP thì được hành nghề chuyên khoa xét nghiệm.

Đối với cử nhân X-Quang: Điểm e khoản 5 Điều 23 Nghị định 109/2016/NĐ-CP quy định: Cử nhân X-Quang có trình độ đại học trở lên, có chứng chỉ hành nghề và có thời gian trực tiếp khám bệnh, chữa bệnh về X-Quang ít nhất là 54 tháng hoặc có thời gian hành nghề chuyên khoa X-Quang ít nhất là 36 tháng đủ điều kiện để làm trưởng khoa X-Quang. Cử nhân X-Quang có trình độ đại học được đọc và mô tả hình ảnh chẩn đoán nhưng không được kết luận chẩn đoán. Trường hợp cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không có bác sỹ chuyên khoa chẩn đoán hình ảnh hoặc bác sỹ X-Quang thì bác sỹ chỉ định kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh kết luận chẩn đoán.

73. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Bộ Giáo dục và Đào tạo trong đào tạo và cấp bằng cho các sinh viên ngành y tế, nhất là đối với các đối tượng cử tuyển, đào tạo theo yêu cầu của địa phương và các đối tượng bồi dưỡng, nâng cao (hệ tại chức). Vì gần đây, nhiều vụ việc chuẩn đoán sai, gây nguy hiểm đến tính mạng cho người bệnh, đã đặt ra cho chúng ta không ít câu hỏi về chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ y bác sĩ trong giai đoạn hiện nay, nhất là đối với các trường hợp sai cơ bản như đau tay trái mổ tay phải, gãy chân trái mổ chân phải, đau bàng quang mổ ruột thừa, …

Trả lời:

Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo để có các qui định liên quan đến đào tạo nhân lực y tế để tăng cường chất lượng đào tạo nhân lực y tế. Bộ Y tế đã rất tích cực, chủ động tham gia chỉ đạo các cơ sở đào tạo củng cố các điều kiện để đảm bảo chất lượng. Bộ Y tế đã làm việc với Bộ Giáo dục và Đào tạo để từng bước thể chế hóa các quy định liên quan đến đào tạo nhân lực y tế trong đó có ưu tiên đào tạo nhân lực trình độ cao, cụ thể là:

- Rà soát và thống nhất triển khai Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam theo Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011, Quy hoạch phát triển nhân lực y tế theo Quyết định số 816/QĐ-BYT ngày 16/2/2012.

- Về mở ngành đào tạo: Bộ Y tế đã có công văn đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉnh sửa, bổ sung các quy định cụ thể đối với đào tạo nhân lực y tế. Để chuẩn bị cho nội dung này, hai Bộ đã thống nhất tạm thời không giao nhiệm vụ đào tạo mới cho các cơ sở đào tạo đa ngành đối với bác sĩ (các ngành Y đa khoa, Y học cổ truyền, Răng Hàm Mặt) và dược sĩ đại học; đối với các ngành và trình độ còn lại, Bộ Y tế xem xét đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo nếu phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực. Bộ Y tế cũng đã nhiều lần đề xuất với Bộ Giáo dục và Đào tạo và cơ quan cấp trên về việc dừng đào tạo liên thông, theo địa chỉ sử dụng bác sĩ, dược sĩ đại học.

- Về xác định chỉ tiêu đào tạo: Bộ Y tế đề nghị cần xác định chỉ tiêu dựa trên năng lực chuyên môn hiện có, đặc biệt là số giảng viên chuyên ngành.

- Về các điều kiện để đảm bảo chất lượng: Có kế hoạch xây dựng các chuẩn năng lực cơ bản cho các ngành đào tạo, xây dựng tiêu chí và bộ công cụ kiểm định chất lượng đào tạo; có định hướng cho các cơ sở đào tạo xây dựng chương trình đào tạo theo hướng đổi mới và hội nhập dựa trên năng lực; xây dựng và ban hành các điều kiện chuyên môn của cơ sở thực hành ngoài trường, ... đặc biệt là đối với các cơ sở đào tạo đa ngành ngoài công lập.

- Hiện đang trình Thủ tướng Chính phủ xem xét ban hành Nghị định quy định về việc kết hợp giữa cơ sở đào tạo và cơ sở thực hành trong đào tạo nhân lực y tế.

Ngoài ra, Bộ Y tế đang đề xuất cho phép tổ chức kỳ thi chuẩn quốc gia để kiểm tra năng lực (kiến thức, kỹ năng, thái độ) của những sinh viên tốt nghiệp khối ngành khoa học sức khỏe trước khi tham gia thực hành nghề nghiệp. Kỳ thi này nhằm mục đích đảm bảo chỉ có những sinh viên đạt một năng lực tối thiểu cần thiết mới được tham gia thực hành nghề nghiệp trên bệnh nhân.

74. Cử tri tỉnh Bạc Liêu, Quãng Nam kiến nghị: Về chế độ tiền lương đối với viên chức ngành y tế còn bất cập và chưa công bằng vì đối với ngành y thời gian đào tạo dài hơn so với các ngành khác, chi phí tốn kém, khi ra trường làm việc với trách nhiệm cao hơn nhưng tiền lương thấp. Đề nghị nâng lương khởi điểm so với hiện nay, cho viên chức ngành y được hưởng phụ cấp.

Trả lời:

Ngày 18/10/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt khung trình độ Quốc gia, theo đó người tốt nghiệp bác sĩ, dược sĩ tương đương bậc 7 (trình độ thạc sĩ). Như vậy, khi thực hiện Quyết định này, những người tốt nghiệp bác sĩ, dược sĩ sẽ được hưởng chế độ như tốt nghiệp thạc sĩ các ngành khác. Việc thực hiện phụ cấp thâm niên nghề như ngành giáo dục, Bộ Y tế đã kiến nghị nhiều lần với Ban Chỉ đạo Trung ương về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; tuy nhiên, vẫn chưa có ý kiến phản hồi. Trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tiếp tục kiến nghị để thực hiện phụ cấp thâm niên nghề đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập theo tinh thần các Nghị quyết số 46/NQ-TW ngày 23/02/2005, Kết luận số 42 KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị và Kết luận số 118-KL/TW ngày 04/01/2016 của Ban Bí thư Trung ương Đảng.

75. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Theo Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg ngày 11/5/2009 về việc quy định chế độ đối với nhân viên y tế thôn, bản được hưởng 0,5 và 0,3 so với mức lương tối thiểu chung. Nhân viên y tế ấp thuộc xã được hưởng, còn nhân viên y tế ấp thuộc thị trấn không được hưởng mà chỉ được nhận 40.000 đồng/tháng, nhưng hiện nay cũng bị cắt. Đề nghị xem xét, sửa đổi Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg, bổ sung cho nhân viên y tế ấp thuộc thị trấn được hưởng chế độ phụ cấp nhằm động viên, khuyến khích cán bộ y tế cấp cơ sở.

Trả lời:

Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg ngày 11/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn bản không áp dụng đối với nhân viên y tế tại các tổ dân phố thuộc các phường, thị trấn. Bộ Y tế đã đề nghị có chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế tại các tổ dân phố thuộc các phường, thị trấn nhưng chưa được các Bộ, ngành đồng thuận.

Trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tổ chức đánh giá việc thực hiện Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg ngày 11/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ và sẽ đề xuất nội dung nêu trên trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. 

76. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế xem xét lại quy định về xóa bỏ chức danh cán bộ hệ trung cấp trong toàn bộ ngành y tế đến năm 2025, vì vấn đề này là do lịch sử để lại nên ở Trạm y tế xã chủ yếu là cán bộ thuộc hệ đào tạo trung cấp, nếu cử cán bộ đi học lên cao đẳng, đại học sẽ thiếu người làm việc, sẽ lại gây ra nhiều khó khăn, bất cập.

Trả lời:

Ngày 07/10/2015, Bộ trưởng Bộ Y tế và Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ký ban hành Thông tư liên tịch số 26/2015/TTLT-BYT-BNV quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật y. Thông tư liên tịch do Bộ Y tế, Bộ Nội vụ ban hành đã tuân thủ theo đúng các quy định về ban hành văn bản quy phạm pháp luật, có ý kiến thẩm định của Vụ Pháp chế của 2 Bộ trước khi ban hành cũng như các ý kiến góp ý của các Bộ, ngành, các tỉnh, thành phố và đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ.

Từ khi Thông tư liên tịch số 26/2015/TTLT-BYT-BNV ban hành, các cơ sở đào tạo y, dược trong toàn quốc và các đơn vị sử dụng viên chức đều thống nhất chủ trương của Bộ Y tế khi ban hành các tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, thống nhất về trình độ đào tạo và việc chuẩn hóa trình độ viên chức y tế đối với các chức danh điều dưỡng, kỹ thuật viên y, hộ sinh hạng IV là đúng, phù hợp để nâng cao chất lượng nhân lực y tế trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng vào ASEAN. Lộ trình đến ngày 01/01/2025, chức danh nghề nghiệp hạng IV phải đạt chuẩn là trình độ đào tạo cao đẳng theo quy định của chức danh nghề nghiệp hạng IV, đặc biệt là đội ngũ điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật y là phù hợp, khả thi và thực hiện được.

77. Cử tri tỉnh Lài Cai kiến nghị: Cử tri phản ánh, có nhiều giáo viên, cán bộ y tế đã hoàn thành các chương trình và đã đủ điều kiện theo quy định nhưng chưa được chuyển ngạch viên chức theo trình độ đào tạo. Đề nghị quan tâm, sớm chuyển ngạch viên chức cho nhóm đối tượng này để giảm bớt thiệt thòi cho họ.

Trả lời:

Luật viên chức, Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức quy định việc quản lý viên chức bằng hạng chức danh nghề nghiệp thay cho ngạch bậc trước đây. Trong những năm qua, Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng và ban hành 7 Thông tư liên tịch quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành y tế và thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành y tế. Bộ Y tế là một trong những Bộ đầu tiên đã triển khai khẩn trương, ban hành đầy đủ Bộ tiêu chuẩn quy định chức danh nghề nghiệp cho viên chức và thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp làm cơ sở để quản lý, sử dụng và tuyển dụng viên chức chuyên môn y tế. Đến nay việc thi thăng hạng cho viên chức chuyên ngành y tế đã có đủ cơ sở pháp lý để triển khai thực hiện.

Điều 30, Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 đã phân cấp tổ chức thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức từ hạng IV lên hạng III và từ hạng III lên hạng II cho Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức.

78. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đối với khu vực nông thôn, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, cán bộ y tế thôn, bản có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách về y tế. Tuy nhiên, chế độ đối với lực lượng này còn quá thấp, đề nghị xem xét có chính sách hỗ trợ phù hợp hơn.

Trả lời:

Nhân viên y tế thôn bản hoạt động theo chế độ không chuyên trách tại thôn, bản và được hưởng phụ cấp theo quy định tại Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg ngày 11/05/2009 của Thủ tướng Chính phủ với mức 0,5 và 0,3 so với mức lương tối thiểu chung. Tuy nhiên, với ý kiến cho rằng chế độ đối với lực lượng này còn quá thấp, đề nghị xem xét có chính sách hỗ trợ phù hợp hơn, Bộ Y tế ghi nhận ý kiến và sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét.

79. Cử tri tỉnh Vĩnh Phúc kiến nghị: Đề nghị nghiên cứu lộ trình xã hội hóa, cổ phần các bệnh viện công lập để giảm đội ngũ viên chức thuộc ngành Y tế.

Trả lời:

Theo Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg ngày 22/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ, các đơn vị sự nghiệp công lập được chuyển đối thành công ty cổ phần khi có đủ điều kiện sau:

- Tự đảm bảo được toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên trong năm gần nhất với thời điểm thực hiện chuyển đổi hoặc có khả năng tự bảo đảm được toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên sau khi chuyển đổi.

- Thuộc danh mục chuyển đổi thành công ty cổ phần theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và đào tạo thì đẩy mạnh hoạt động theo cơ chế tự chủ, tiến tới tự chủ hoàn toàn, hạch toán như doanh nghiệp. Khuyến khích liên kết hợp tác trên cơ sở bảo toàn tài sản và mục đích cung cấp dịch vụ công. Thí điểm cho thuê quản lý, thuê cơ sở vật chất, thí điểm cổ phần hóa trên nguyên tắc bảo đảm tiếp tục cung cấp dịch vụ công với chất lượng tốt hơn.

Hiện nay, Bộ Y tế đang phối hợp với các Bộ ngành liên quan để đánh giá việc thí điểm cổ phần hóa Bệnh viện Giao thông Vận tải để từ đó có cơ sở tổng kết báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Khi giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh được tính đúng, tính đủ các yếu tố chi phí theo lộ trình điều chỉnh giá, thì phần lớn các cơ sở khám bệnh, chữa bệnhcông lập tuyến tỉnh, tuyến trung ương sẽ thuộc nhóm tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên (chỉ còn một số các bệnh viện tuyến huyện, do số số lượng thực hiện các dịch vụ kỹ thuật ít, nguồn thu sẽ không bảo đảm được chi phí hoạt động thường xuyên vẫn cần có sự bao cấp của Nhà nước), các cơ sở khám bệnh, chữa bệnhsẽ được giao tự chủ mạnh hơn, các Bệnh viện tự đảm bảo nguồn chi lương, như vậy không nhất thiết phải thực hiện cổ phần hóa các bệnh viện thì mới đạt được mục tiêu giảm đội ngũ viên chức thuộc ngành y tế.

80. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị xem xét, nghiên cứu, trình Chính phủ để sửa đổi Nghị định 56/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập theo hướng điều chỉnh mức phụ cấp cho phù hợp, để động viên họ thực hiện tốt trách nhiệm y đức trong khám, chữa bệnh.

Trả lời:

Bộ Y tế ghi nhận ý kiến đề nghị và trong thời gian tới sẽ tiếp tục nghiên cứu để tham mưu trình Chính phủ có các giải pháp và chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, viên chức ngành y tế phù hợp với khả năng của Nhà nước và điều kiện kinh tế xã hội nhằm nâng cao đời sống, động viên cán bộ, công chức, viên chức ngành y tế thực hiện tốt trách nhiệm y đức trong khám, chữa bệnh.

81. Cử tri tỉnh An Giang, Bạc Liêu, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Định, Bình Thuận, Bến Tre,  Cao Bằng, Cần Thơ, Đà Nẵng, Đắk Lắk, Đồng Nai, Đồng Tháp, Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Lạng Sơn, Lâm Đồng, Long An, Nghệ An,  Ninh Bình, Ninh Thuận, Sóc Trăng, Tây Ninh, Thái Nguyên, Thừa Thiên – Huế, Tiền Giang, TP. Hồ Chí Minh, Vĩnh Long kiến nghị: Hiện nay, vấn đề thực phẩm không đảm bảo vệ sinh, an toàn đang tràn lan trên thị trường, khó kiểm soát, ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của người tiêu dùng. Đề nghị cơ quan chức năng thực hiện quyết liệt hơn nữa công tác quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm, tránh việc đùn đẩy trách nhiệm giữa các bộ, ngành, địa phương; có giải pháp đồng bộ, hiệu quả để giải quyết dứt điểm tình trạng này; thường xuyên tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm trong phạm vi cả nước; xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm theo hướng tăng mức xử phạt, tước giấy phép kinh doanh, chuyển cơ quan có thẩm quyền để xem xét trách nhiệm hình sự, thông tin rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, để đảm bảo răn đe đối tượng vi phạm; đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn các cơ sở sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm đạt chất lượng; hướng dẫn người dân cách thức nhận biết, phân biệt khi lựa chọn các loại thực phẩm an toàn; ...

Trả lời:

Thanh tra, kiểm tra về an toàn thực phẩm đã được quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật, ở Trung ương do Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Công Thương thực hiện; ở địa phương do các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh/thành phố và UBND cấp quận (huyện), xã (phường) thực hiện. Các bộ ngành đã ban hành Thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT/BYT-BNN-BCT hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, tránh chồng chéo trong hoạt động quản lý.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 13/CT-TTg về việc tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, trong đó Bộ Y tế phối hợp với các Bộ, ngành triển khai thực hiện và chỉ đạo các địa phương triển khai nghiêm, làm rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm và xử lý nghiêm những đơn vị, cá nhân không hoàn thành trách nhiệm, buông lỏng quản lý.

Hiện nay, các quy định về xử phạt vi phạm hành chính về cơ bản đã đầy đủ, đối với một số hành vi vi phạm, Nghị định số 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định xử lý vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm đã quy định mức phạt được áp dụng bằng 3,5 lần tổng giá trị thực phẩm vi phạm tại thời điểm vi phạm đối với cá nhân hoặc 07 lần tổng giá trị thực phẩm vi phạm tại thời điểm vi phạm đối với tổ chức. Trong thời gian qua, việc thực thi có nơi chưa nghiêm, còn nể nang, né tránh; có nơi năng lực người thực thi còn hạn chế, thiếu nhân lực, đặc biệt là ở cấp quận (huyện), xã (phường).

Đối với việc tuyên truyền, vận động bảo đảm an toàn thực phẩm:  Bộ Y tế và Đài Tiếng nói Việt Nam đã ký Chương trình số 1443/Ctr-TNVN-BYT ngày 15/6/2016 phối hợp tuyên truyền về an toàn thực phẩm và phòng chống ngộ độc thực phẩm giai đoạn 2016-2020. Tiếp tục phối hợp với các Báo, đài tuyên truyền về an toàn thực phẩm; thông tin về thực phẩm “bẩn” và thực phẩm an toàn. Các vi phạm về an toàn thực phẩm do Cục An toàn thực phẩm và Thanh tra Bộ Y tế phát hiện, xử lý thực hiện công khai trên trang thông tin điện tử của Bộ Y tế và Cục An toàn thực phẩm. Ngoài ra, Bộ Y tế đã giao Cục An toàn thực phẩm thiết lập đường dây nóng (điện thoại, email) tiếp nhận thông tin phản ánh vi phạm về an toàn thực phẩm. Tiếp thu ý kiến của cử tri, cùng với tăng cường thanh tra, kiểm tra, Bộ Y tế phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Công Thương và các Bộ, ngành chức năng yêu cầu các địa phương chỉ đạo phối hợp với các cơ quan truyền thông: Cung cấp thông tin về cơ sở trên địa bàn chấp hành tốt các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, cơ sở bán sản phẩm thực phẩm an toàn để người dân biết và lựa chọn. Công bố công khai cá nhân, tổ chức vi phạm về an toàn thực phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định.

82. Cử tri Thành phố Đã Nẵng kiến nghị: Đề nghị thường xuyên giám sát lực lượng thanh tra, kiểm tra, thực thi pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm, tránh biểu hiện tiêu cực trong thi hành công vụ.

Trả lời:

Thực hiện theo Luật Cán bộ, Công chức và Luật Phòng, chống tham nhũng, các cán bộ, công chức ngành y tế nói chung và lực lượng thanh tra, kiểm tra, thực thi pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm nói riêng đều phải nắm rõ các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, trên cơ sở đó tích cực đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao.

Trường hợp phát hiện cán bộ, công chức, thanh tra viên vi phạm các quy định của Luật Cán bộ Công chức, Luật Phòng chống tham nhũng, Bộ Y tế sẽ xử lý nghiêm theo các quy định của pháp luật.

83. Cử tri thành phố Đã Nẵng kiến nghị: Cử tri phản ảnh, khoản 2, Điều 12 Nghị định 38/2012/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ quy định về thẩm quyền cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm là chưa rõ, chồng lấn về thẩm quyền; đối với các doanh nghiệp, siêu thị kinh doanh nhiều lĩnh vực, thì được cấp 01 giấy phép chung hay mỗi lĩnh vực 01 giấy phép riêng? Vấn đề này đã gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình làm thủ tục xin cấp phép, không rõ liên hệ tại cơ quan nào. Cử tri đề nghị, Chính phủ xem xét lại quy định này.

Trả lời:

Khoản 2, Điều 12, Nghị định 38/2012/NĐ-CP quy định thẩm quyền cấp, thu hồi Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm của các Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công Thương thuộc lĩnh vực được phân công quản lý tại Điều 62, 63, 64, Luật An toàn thực phẩm.

   Đối với các trường hợp một cơ sở sản xuất, kinh doanh nhiều loại sản phẩm thực phẩm thuộc thẩm quyền quản lý của nhiều Bộ, thì thực hiện theo quy định tại Điều 3 Thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT.

   Như vậy, trách nhiệm quản lý an toàn thực phẩm nói chung, thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm nói riêng, đã được quy định một cách rõ ràng cụ thể, không có sự chồng lấn.

   * Đối với các doanh nghiệp, siêu thị kinh doanh nhiều lĩnh vực thì được cấp 01 Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện chung hay mỗi lĩnh vực 01 giấy phép riêng? Vấn đề này đã gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình làm thủ tục xin cấp phép, không rõ liên hệ tại cơ quan nào?

   Như trên đã đề cập, Thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT (khoản 5, Điều 3) đã quy định: “Đối với cơ sở kinh doanh nhiều loại sản phẩm thực phẩm thuộc thẩm quyền quản lý của từ 2 Bộ trở lên (bao gồm cả chợ và siêu thị) thì Bộ Công Thương chịu trách nhiệm quản lý trừ chợ đầu mối, đấu giá nông sản do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý”.

   Như vậy, trách nhiệm quản lý về an toàn thực phẩm đối với các doanh nghiệp, siêu thị kinh doanh nhiều lĩnh vực do Bộ Công Thương cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Những cơ sở này chỉ phải cấp 01 Giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm đối với loại hình kinh doanh thực phẩm bởi cơ quan có thẩm quyền theo sự phân công, phân cấp của Bộ Công Thương.

84. Cử tri thành phố Đã Nẵng kiến nghị: Hiện nay, công tác quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm giao cho nhiều Bộ, ngành, nhưng tình trạng mất vệ sịnh an toàn thực phẩm vẫn xảy ra ở hầu hết các địa phương. Cử tri đề nghị quy định thống nhất một đầu mối quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm để giải quyết triệt để vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm.

Trả lời:

   Hiện nay theo quy định tại Luật an toàn thực phẩm và Nghị định số 38/2012/NĐ-CP thì việc quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm được phân công cho 3 bộ: Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương và Ủy ban nhân dân các cấp. Trong đó, Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Việc phân công như vậy nhằm mục đích phân công rõ hơn nhiệm vụ và hoạt động của các Bộ tham gia vào toàn bộ quá trình quản lý thực phẩm. Trong đó, Bộ Y tế là cơ quan chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan quản lý an toàn thực phẩm, Bộ Y tế là cơ quan thường trực và chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, đồng thời các Bộ chính chịu trách nhiệm quản lý về an toàn thực phẩm thuộc lĩnh vực của mình là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công Thương.

   Ngoài ra, tại địa phương Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên phạm vi địa phương, chịu trách nhiệm trước Chính phủ về an toàn vệ sinh thực phẩm tại địa phương.

85. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: Cử tri đề nghị ngành chức năng có giải pháp, quản lý chặt chẽ quy trình sản xuất, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhằm bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng.

Trả lời:

Trong những năm qua Bộ Y tế cùng các bộ ngành liên quan đã ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành  các văn bản quy phạm pháp luật về điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh và những quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lý đối với tổ chức, cá nhân vi phạm.

   Nhằm tăng cường hơn nữa công tác bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, ngành y tế tiếp tục phối hợp cơ quan hữu quan:

   - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến văn bản quy phạm  cũng như kiến thức về an toàn thực phẩm để tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng hiểu đúng và tự giác chấp hành các quy định pháp luật về an toàn thực phẩm.

   - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra an toàn thực phẩm, đặc biệt xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm và công khai trên phương tiện thông tin đại chúng. Đề nghị mở rộng triển khai thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm đến tuyến quân huyện, xã phường.

   - Triển khai chương trình giám sát chủ động nhằm phát hiện sớm và xử lý triệt để các nguy cơ ô nhiễm thực phẩm nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

   - Bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu thực tế và hội nhập quốc tế.

86. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi  kiến nghị: Đề nghị xem xét, sửa đổi, bổ sung Nghị định số 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 về Quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm theo hướng tăng mức chế tài xử phạt; tăng cường triển khai các chính sách của Nhà nước về an toàn thực phẩm (Điều 4, Luật An toàn thực phẩm); phân tích, lượng hóa tác động nguy hại đến sức khỏe con người để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm có tính chất nguy hiểm, quy mô lớn (Điều 6, Luật An toàn thực phẩm)

Trả lời:

1. Về kiến nghị tăng mức chế tài xử phạt vi phạm về an toàn thực phẩm

Hiện nay việc xử phạt vi phạm về an toàn thực phẩm được thực hiện theo Luật An toàn thực phẩm và Nghị định số 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 về Quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm, trong đó đã quy định mức phạt được áp dụng bằng 3,5 lần tổng giá trị thực phẩm vi phạm tại thời điểm vi phạm đối với cá nhân hoặc 07 lần tổng giá trị thực phẩm vi phạm tại thời điểm vi phạm đối với tổ chức. Tuy nhiên trên thực tế, trong thời gian qua, việc thực thi có nơi chưa nghiêm, còn nể nang, né tránh; có nơi năng lực người thực thi còn hạn chế, thiếu nhân lực, đặc biệt là ở cấp quận (huyện), xã (phường).

Năm 2017, Bộ Y tế đang tiến hành rà soát việc thực hiện Nghị định số 178/2013/NĐ-CP trong đó tập trung vào các hành vi vi phạm để tiến hành sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế.

2. Về kiến nghị tăng cường triển khai các chính sách của Nhà nước về an toàn thực phẩm

Xin tham khảo nội dung trả lời câu 85.

87. Cử tri TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Hiện nay, việc kiểm tra của các cơ quan nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với doanh nghiệp là quá nhiều, gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp. Đề nghị cơ quan chức năng cần bố trí thời gian kiểm tra các doanh nghiệp một cách hợp lý để không ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp.

Trả lời:

Thanh tra, kiểm tra về an toàn thực phẩm đã được quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật, ở Trung ương do Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương thực hiện; ở địa phương do các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh/thành phố và UBND cấp quận/huyện, xã/phường thực hiện. Hiện nay, các Bộ ngành liên quan đã triển khai theo Thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT/BYT-BNN-BCT hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm tránh chồng chéo giữa các ngành, các cấp, bảo đảm hoạt động thanh tra, kiểm tra thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Theo đó, việc phối hợp trong thanh tra, kiểm tra về an toàn thực phẩm được thực hiện trên các nguyên tắc: Thực hiện trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng Bộ; Xác định rõ cơ quan chủ trì và cơ quan phối hợp theo quy định; Trường hợp tiến hành thanh tra, kiểm tra liên ngành, Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương và các lực lượng liên quan tổ chức và phân công thực hiện; Hoạt động thanh tra, kiểm tra phải bảo đảm không chồng chéo giữa các ngành, các cấp, bảo đảm hoạt động thanh tra, kiểm tra thống nhất từ Trung ương đến địa phương; Thực hiện theo đúng nguyên tắc, nghiệp vụ, chuyên môn, chế độ bảo mật trong hoạt động thanh tra, kiểm tra theo quy định của pháp luật; Cơ quan chủ trì việc thanh tra, kiểm tra phải thông báo bằng văn bản kết quả phối hợp thanh tra, kiểm tra cho cơ quan tham gia phối hợp; Thực hiện việc chia sẻ thông tin giữa các bộ từ lập kế hoạch đến thực hiện thanh tra và kết quả thanh tra để biết và phối hợp; Những vướng mắc phát sinh trong quá trình phối hợp phải được bàn bạc, giải quyết theo quy định của pháp luật và yêu cầu nghiệp vụ của các cơ quan liên quan. Trường hợp không thống nhất được hướng giải quyết thì phải báo cáo Ban chỉ đạo liên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm cùng cấp để xin ý kiến giải quyết.

88. Cử tri TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị nghiên cứu, xem xét, trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật An toàn thực phẩm để đáp ứng được nhu cầu thực tiễn.

Trả lời:

Hiện nay, Chính phủ đã giao Bộ Y tế phối hợp với Ủy ban Khoa học, công nghệ và Môi trường Quốc hội và các bộ, ngành có liên quan thực hiện đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Luật an toàn thực phẩm. Sau khi đánh giá, Bộ Y tế sẽ tổng hợp và báo cáo Chính phủ việc thực hiện Luật an toàn thực phẩm sau 5 năm thực hiện. Nếu thấy còn vấn đề bất cập trong công tác an toàn thực phẩm, Bộ Y tế sẽ báo cáo đề xuất sửa đổi Luật cho phù hợp với thực tiễn.

89. Cử tri TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Kiến nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định mới thay thế những nội dung về kiểm tra an toàn thực phẩm, kiểm tra chất lượng tại các Nghị định 132/2008/NĐ-CP và Nghị định 38/2012/NĐ-CP của Chính phủ và toàn bộ các Thông tư của các Bộ quy định về kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để thống nhất về kiểm tra chuyên ngành, trong đó:

+ Công bố danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện kiểm tra chuyên ngành cần phải thực hiện kiểm tra tại thời điểm trước khi thông quan.

+ Thống nhất quy định về hồ sơ đăng ký kiểm tra, phương thức kiểm tra, nguyên tắc kiểm tra, trình tự kiểm tra, địa điểm kiểm tra, các trường hợp miễn, giảm kiểm tra và ấn chỉ sử dụng trong kiểm tra chuyên ngành.

Trả lời:

Về việc kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để thống nhất quản lý, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 40/2016/TT-BYT ngày 4/11/2016 của Bộ Y tế về việc ban hành Danh mục thực phẩm, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm và dụng cụ, vật liệu bao gói chứa đựng thực phẩm theo mã số HS trong biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành của Bộ Y tế .

    Đối với việc thống nhất quy định về trình tự, thủ tục kiểm tra, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 52/2015/TT-BYT ngày 21/12/2015 quy định việc kiểm tra nhà nước về an toàn thực phẩm đối với thực phẩm nhập khẩu và hồ sơ, thủ tục cấp giấy chứng nhận đối với thực phẩm xuất khẩu thuộc phạm vi quản lý của Bộ Y tế.

90. Cử tri tỉnh An Giang, TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị cần thành lập một cơ quan quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm trực thuộc Chính phủ để chịu trách nhiệm toàn bộ về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm .

Trả lời:

Hiện nay theo quy định tại Luật an toàn thực phẩm và Nghị định số 38/2012/NĐ-CP thì việc quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm được phân công cho 3 bộ: Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương và Ủy ban nhân dân các cấp. Trong đó, Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Việc phân công như vậy nhằm mục đích phân công rõ hơn nhiệm vụ và hoạt động của các Bộ tham gia vào toàn bộ quá trình quản lý thực phẩm. Trong đó, Bộ Y tế là cơ quan chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan quản lý an toàn thực phẩm, Bộ Y tế là cơ quan thường trực và chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, đồng thời các Bộ chính chịu trách nhiệm quản lý về an toàn thực phẩm thuộc lĩnh vực của mình là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công Thương.

   Ngoài ra, tại địa phương Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên phạm vi địa phương, chịu trách nhiệm trước Chính phủ về an toàn vệ sinh thực phẩm tại địa phương.

Qua báo cáo thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2016 của 63 tỉnh, thành phố và các Bộ, ngành có liên quan thì việc phân công, quản lý an toàn thực phẩm hiện nay đã tương đối rõ ràng, không chồng chéo và bỏ sót, do đó tình hình an toàn thực phẩm đã được cải thiện đáng kể so với 5 năm trước đây. Hiện tại Quốc hội đang tiến hành giám sát tối cao việc thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2016, sau khi giám sát sẽ có báo cáo cụ thể về vấn đề quản lý an toàn thực phẩm hiện nay của Việt Nam.

91. Cử tri tỉnh Đồng Nai, Nam Định kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ Y tế tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và kịp thời có các biện pháp, phương án cụ thể nâng cao chất lượng công tác phòng ngừa dịch bệnh, không để tình trạng dịch bệnh sốt xuất huyết, bệnh bạch cầu, dịch nhiễm vi rút Zika, … bùng phát, khó kiểm soát như thời gian qua.

Trả lời:

Đối với tình hình dịch bệnh, Bộ Y tế đã triển khai các giải pháp và phương án như sau:

1. Công tác chỉ đạo

- Triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Chính phủ về công tác phòng chống dịch bệnh, đặc biệt các dịch bệnh mới nổi.

- Chủ động tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản chỉ đạo tăng cường thực hiện công tác phòng, chống dịch cúm gia cầm độc lực cao lây sang người (Công văn số 18/TTg-KGVX ngày 27/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ gửi các Bộ, ngành, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương). - Chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương xây dựng kế hoạch phòng chống dịch năm 2017 trình Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố phê duyệt và tổ chức thực hiện ngay từ đầu năm.

- Chỉ đạo các địa phương, đơn vị triển khai Kế hoạch hành động phòng chống dịch cúm A(H7N9) tại Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 567/QĐ-BYT ngày 21/02/2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Tổ chức họp Ban chỉ đạo phòng, chống dịch bệnh nguy hiểm và mới nổi về “Tăng cường phối hợp liên ngành trong phòng chống các chủng vi rút cúm gia cầm độc lực cao trên người” tại Bộ Y tế ngày 03/3/2017. Chỉ đạo Sở Y tế Hà Nội, Sở Y tế Lạng Sơn tham mưu Trưởng Ban chỉ đạo Phòng chống dịch của TP. Hà Nội và tỉnh Lạng Sơn tổ chức diễn tập liên ngành phòng chống cúm gia cầm độc lực cao A(H7N9).

- Tổ chức rà soát, cập nhật Hướng dẫn giám sát phòng chống cúm A(H7N9).

- Tăng cường chỉ đạo các địa phương đơn vị tích cực triển khai các hoạt động phòng chống các bệnh mùa đông xuân: ho gà, viêm màng não do não mô cầu, sở/rubella.

- Tổ chức chiến dịch người dân tự diệt muỗi, diệt lăng quăng phòng, chống dịch bệnh do vi rút Zika, sốt xuất huyết.

- Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngànhtriển khai công tác phòng chống bệnh truyền nhiễm tại cộng đồng và cửa khẩu.

- Tăng cường phòng chống dịch bệnh trong mùa lễ hội và mùa xuân hè.

- Phối hợp bộ đội biên phòng triển khai tiêm chủng, phòng chống dịch tại vùng sâu, vùng xa, biên giới.

- Phối hợp với ngành Giáo dục triển khai phòng chống dịch trong nhà trường.

2. Các giải pháp giám sát và đáp ứng dịch

- Kịp thời nắm vững tình hình dịch bệnh trên Thế giới, tăng cường thực hiện IHR trong việc chia sẻ, cập nhật thông tin dịch bệnh.

- Tăng cường các hoạt động giám sát, phát hiện sớm các bệnh nguy hiểm: cúm A(H5N1), cúm A(H7N9), MERS-CoV.

- Phối hợp chặt chẽ với ngành Thú y chia sẻ thông tin và tình hình dịch bệnh trên gia cầm để triển khai các biện pháp phòng ngừa lây truyền sang người.

- Mở rộng điểm giám sát Zika; giám sát các bà mẹ mang thai nghi nhiễm Zika.

- Tập trung, xử lý triệt để ổ dịch bệnh đặc trưng từng khu vực:

+ Miền Bắc: cúm gia cầm qua biên giới, bệnh dại, liên cầu lợn, than,  viêm não Nhật Bản, lỵ trực khuẩn ...

+ Miền Trung: sốt xuất huyết, tay chân miệng, viêm não Nhật Bản, bạch hầu...

+ Miền Nam: sốt xuất huyết, tay chân miệng ...

+ Khu vực Tây Nguyên: sốt xuất huyết, bạch hầu ...

- Xử lý các ổ dịch bùng phát theo mùa: hiện là thủy đậu, đau mắt đỏ ...

- Tiếp tục hỗ trợ các địa phương triển khai thực hiện Thông tư số  54/2015/TT-BYT tại 63 tỉnh, thành phố bằng phần mềm giám sát bệnh truyền nhiễm.

- Giám sát hoạt động triển khai giám sát dựa vào sự kiện, giám sát trọng điểm SARI và chương trình đào tạo dịch tễ học thực địa (FETP).

- Đôn đốc các địa phương, đơn vị thực hiện Kế hoạch phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2017, kế hoạch phòng chống sốt xuất huyết, kế hoạch GHS.

- Liên hệ chặt chẽ với Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Cơ quan đầu mối thực hiện Điều lệ y tế quốc tế của các nước kịp thời chia sẻ và cập nhật thông tin về tình hình dịch bệnh cúm A(H7N9) và các bệnh dịch nguy hiểm khác.

3. Các giải pháp giảm tử vong

- Nâng cao năng lực chẩn đoán, điều trị cho bệnh viện các tuyến.

- Tập huấn chẩn đoán, điều trị, hồi sức cấp cứu, đặc biệt các bệnh đã lưu hành, số mắc giảm trong những năm qua nhưng có nguy cơ rất cao bùng phát các ổ dịch (bạch hầu, ho gà, sởi, viêm não vi rút …).

- Phân tuyến điều trị, phòng chống nhiễm khuẩn, phòng lây nhiễm chéo.

- Cập nhật, phác đồ điều trị, phác đồ chống sốc, chống kháng thuốc.

- Xây dựng phương án giảm quá tải tuyến trên khi dịch bùng phát.

- Duy trì các đơn vị tập huấn điều trị bệnh truyền nhiễm tại các bệnh viện.

- Truyền thông cho người bệnh, người chăm sóc các kiến thức cơ bản về phòng bệnh, phòng lây nhiễm.

4. Truyền thông, giáo dục sức khỏe

- Xây dựng và đăng tải Khuyến cáo phòng chống bệnh cúm gia cầm A(H7N9), ho gà, đau mắt đỏ, liên cầu lợn ở người, thủy đậu, ... trên Website của Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế; cung cấp thông tin cho báo chí để phối hợp tăng cường truyền thông cho cộng đồng chủ động phòng bệnh.

- Chủ động, cung cấp thông tin chính xác về dịch bệnh cúm gia cầm độc lực cao lây sang người A(H7N9) và các khuyến cáo phòng bệnh, phối hợp truyền thông đại chúng và hệ thống truyền thông cơ sở.

- Xây dựng các thông điệp, truyền thông đặc thù, phù hợp với tập quán, ngôn ngữ, dân tộc.

- Tập trung các hoạt động truyền thông làm thay đổi hành vi của người dân.

- Tập trung truyền thông phòng chống bệnh mới nổi (Zika), bệnh lưu hành (SXH, TCM, dại ...), bệnh có vắc xin (ho gà, bạch hầu, viêm não ...).

- Phát động chiến dịch người dân tự diệt muỗi, diệt lăng quăng; rửa tay xà phòng; tiêm chủng đầy đủ; an toàn thực phẩm trong mùa lễ hội, mùa hè.

- Giao lưu trực tuyến; cập nhật, đăng tải khuyến cáo trên Website Bộ Y tế, Cục Y tế dự phòng.

5. Công tác hậu cần

Về phía Bộ Y tế:

- Chuẩn bị đầy đủ test kít, sinh phẩm phục vụ chẩn đoán bệnh Zika, cúm gia cầm ...

- Xây dựng danh mục dự trữ thuốc, hóa chất, vắc xin phòng chống dịch.

- Dự trữ hóa chất, trang thiết bị, thuốc đáp ứng dịch kịp thời.

- Bố trí kinh phí chương trình mục tiêu, phòng chống dịch bệnh.

- Huy động nguồn lực từ các tổ chức quốc tế.

Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố:

- Cấp kinh phí chủ động phòng bệnh, chương trình mục tiêu cho ngành y tế.

- Huy động tài trợ, kinh phí, tham gia từ các ban ngành đoàn thể, các nhà tài trợ và các doanh nghiệp trên địa bàn.

6. Công tác thanh tra, kiểm tra

Bộ Y tế đã tổ chức 5 đoàn công tác (do Lãnh đạo Bộ, các Cục, Viện làm trưởng đoàn) đi kiểm tra, giám sát tại các cửa khẩu, đặc biệt là các cửa khẩu khu vực giáp biên giới với Trung Quốc, các khu vực có nguy cơ bùng phát dịch kiểm tra công tác kiểm dịch y tế tại các cửa khẩu, phát hiện sớm các trường hợp nghi ngờ, sẵn sàng đáp ứng, phòng chống dịch.

92. Cử tri tỉnh Bắc Giang, Hà Giang, Thái Nguyên, Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị Bộ Y tế phối hợp với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 18/11/2013, vì trong thực tế, còn nhiều đối tượng tham gia kháng chiến bị phơi nhiễm chất độc hóa học nhưng không mắc các bệnh theo danh mục 17 bệnh của Thông tư nên không được hưởng chính sách.

Trả lời:

Bộ Y tế đã nhận được nhiều ý kiến của cử tri đề nghị xem xét, sửa đổi, bổ sung danh mục bệnh tật nêu trên và Bộ Y tế đã thành lập Hội đồng chuyên môn để rà soát, chỉnh sửa bổ sung danh mục bệnh tật này. Hội đồng chuyên môn đã họp nhiều phiên, căn cứ vào các tài liệu khoa học có liên quan ở trong nước và quốc tế đã được công bố để rà soát và xem xét cơ sở khoa học, sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin.

Thực hiện sự chỉ đạo của Phó Thủ tướng tại Thông báo số 196/TB-VPCP ngày 09/10/2007 của Văn phòng Chính phủ về việc giao Bộ Y tế ban hành tiêu chí (sửa đổi) để xác định đối tượng là nạn nhân chất độc da cam/dioxin, Bộ Y tế tiến hành xây dựng Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin để làm căn cứ tổng điều tra nạn nhân chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam.

Việc xây dựng và ban hành Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật theo Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20/2/2009 là vần đề khoa học, nhân đạo, có liên quan đến trong nước và quốc tế, đảm bảo quyền lợi của những người bị phơi nhiễm chất độc hóa học/dioxin nên quá trình biên soạn danh mục được thực hiện công phu và cẩn thận.

Nguyên tắc để xây dựng Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin hoàn toàn dựa trên những kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học về ảnh hưởng của chất độc hóa học/dioxin lên sức khỏe con người đã được công bố ở trên thế giới (Hoa Kỳ) và trong nước.

Trong quá trình xây dựng Danh mục bệnh tật này, Bộ Y tế đã tổ chức nhiều hội thảo, xin ý kiến đông đảo các nhà khoa học trong nước và quốc tế. Bộ Y tế đã thành lập Hội đồng khoa học gồm có 16 người, là các Giáo sư, Tiến sỹ, Bác sỹ chuyên gia đầu ngành của các chuyên ngành, Hội đồng đã thận trọng rà soát, thẩm định từng bệnh, từng tên bệnh trong Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin.

Sau một thời gian triển khai thực hiện Quyết định số số 09/2008/QĐ-BYT, ngày 25/2/2011, Bộ trưởng Bộ Y tế ký Quyết định số 539/QĐ-BYT thành lập Hội đồng chuyên môn sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn chẩn đoán bệnh, tật, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/ dioxin. Hội đồng chuyên môn đã tổ chức nhiều cuộc họp để rà soát lại acsc bệnh, tật, dị dạng, dị tật ban hành kèm theo Quyết định số 09/2008/Q Đ-TTg nêu trên và kết luận: Hiện tại, Hội đồng thấy chưa có đủ cơ sở khoa học để sửa đổi, bổ sung Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20/2/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/ dioxin; đồng thời Hội đồng tiếp tục nghiên cứu, xem xét nếu có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn, Hội đồng sẽ đề xuất Bộ Y tế sửa đổi, bổ sung danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin ban hành kèm theo Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20/2/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế.

Hội đồng chuyên môn đã họp nhiều phiên, căn cứ vào các tài liệu khoa học có liên quan ở trong nước và quốc tế đã được công bố để rà soát và xem xét cơ sở khoa học, sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin.

Phiên họp gần đây nhất vào ngày 25/5/2016, Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế đã tổ chức họp để rà soát lại danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật được ban hành tại Thông tư số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH. Hội đồng đã đi đến kết luận: Hiện nay, chúng ta chưa có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn để bổ sung, sửa đổi Danh mục các bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin đã được ban hành. Do vậy, cho đến nay Danh mục bệnh tật ban hành kèm theo Thông tư số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH nêu trên, nay được ban hành tại Thông tư liên tịch số 20/2016/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 30/6/2016 là chưa thay đổi.

Theo khoa học và thực tiễn, không phải ai bị phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin thì đều bị mắc bệnh. Sau khi bị phơi nhiễm, việc bị mắc bệnh hay không mắc bệnh, bị mắc bệnh nào và thời gian nào thì bị mắc bệnh còn phụ thuộc vào sự đề kháng và sức khỏe của từng người cụ thể. Căn cứ vào danh mục bệnh tật và tình trạng mắc bệnh của mỗi đối tượng cụ thể mà Hội đồng Giám định y khoa đưa ra kết luận về tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi đối tượng để ngành Lao động-Thương binh và Xã hội giải quyết chế độc chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. 

Bộ Y tế tiếp tục giao cho Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế nghiên cứu, khi có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn, sẽ báo cáo Bộ trưởng Bộ Y tế để xem xét sửa đổi, bổ sung Danh mục các bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin.

93. Cử tri tỉnh Bạc Liêu, Kiên Giang kiến nghị: Đề nghị sớm sửa đổi Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính, theo đó xây dựng và banh hành mức giá dịch vụ khám, chữa bệnh cho đối tượng không tham gia bảo hiểm y tế ngang bằng với mức giá mà Quỹ bảo hiểm y tế thanh toán cho đối tượng tham gia bảo hiểm y tế .

Trả lời:

Thực hiện các chủ trương của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội và Nghị định 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ về lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh. Liên Bộ Y tế - Tài chính đã trình Thủ tướng Chính phủ và ký ban hành Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT- BYT-BTC ngày 29/10/2015 quy định thống nhất giá dịch vụ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế(BHYT) giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc. Trước mắt chỉ áp dụng cho người có thẻ BHYT.

Hiện nay Bộ Y tế đã xây dựng và đang hoàn thiện dự thảo Thông tư quy định mức giá tối đa dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh đối với người chưa tham gia BHYT và các dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh không thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập. Mức giá tối đa theo nguyên tắc bằng mức giá của người có thẻ BHYT để khuyến khích tham gia BHYT và tạo sự bình đẳng giữa người có BHYT và không có BHYT. Thông tư này dự kiến ban hành và thực hiện trong năm 2017.

Việc điều chỉnh giá viện phí đối với người chưa có thẻ BHYT được tiến hành chậm hơn người có thẻ BHYT để người chưa có thẻ có thêm một khoảng thời gian cân nhắc thấy được tính nhân văn, lợi ích của BHYT để tham gia BHYT.

94. Cử tri tỉnh Bắc Kạn kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ Y tế phối hợp với các bộ, ngành có liên quan ban hành văn bản hướng dẫn vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật ở tuyến tỉnh và Trung tâm Y tế tuyến huyện.

Trả lời:

Ngày 25/10/2016, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 37/2016/TT-BYT của Bộ Y tế hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của trung tâm y tế tuyến huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương.

Đối với Trung tâm Kiểm soát bệnh tât ở tuyến tỉnh, Bộ Y tế đang xây dựng văn bản hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Trung tâm này và dự kiến ban hành trong năm 2017.

95. Cử tri tỉnh Bình Dương kiến nghị: Theo quy định tại điểm c, Khoản 2, Điều 89, điểm a, Khoản 1 và điểm a, Khoản 3 Điều 37 Nghị định 176/2013/NĐ-CP ngày 24/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế thì Chủ tịch UBND cấp huyện có thẩm quyền “tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề” đối với hành vi “Vi phạm quy định về điều kiện kinh doanh và sử dụng chứng chỉ hành nghề dược, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc, giấy phép hoạt động về thuốc và nguyên liệu làm thuốc tại Việt Nam”. Tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại Khoản 6, Điều 1 Nghị định số 89/2012/NĐ-CP ngày 24/10/2012 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 79/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Dược thì Chứng chỉ hành nghề dược là do Sở Y tế quản lý nên Chủ tịch UBND cấp huyện không thể tước quyền sử dụng khi xử lý vi phạm hành chính. Cử tri đề nghị nên sửa đổi lại thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch UBND cấp huyện tại điểm c, Khoản 2, Điều 89 là “tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc”.

Trả lời:

Theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 38 của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012: Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có quyền Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn”.

Việc quy định về tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề không phụ thuộc vào cơ quan cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Vì vậy việc cử tri đề nghị sửa đổi lại thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch UBND cấp huyện tại điểm c, khoản 2, Điều 89 của Nghị định 176/2013/NĐ-CP ngày 24/11/2013 của Chính phủ quy định về XPVPHC trong lĩnh vực y tế thành "tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc” là không phù hợp.

Đồng thời, Nghị định số 89/2012/NĐ-CP ngày 24/12/2012 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 79/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Dược đã hết hiệu lực.

96. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị xem xét, sửa đổi điểm a, Khoản 6, Điều 29 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế (xử phạt 50.000.000 đồng đối với cung cấp dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh mà không có giấy phép hoạt động) vì nếu áp dụng Điều này đối với các cơ sở dịch vụ y tế nhỏ lẻ ở vùng sâu, vùng xa là không khả thi. Đề nghị phân loại xử phạt theo từng loại hình ngành nghề: Bệnh viện đa khoa; Bệnh viện chuyên khoa; Phòng khám đa khoa; Phòng khám chuyên khoa; cơ sở dịch vụ y tế, theo mức giảm dần thì hiệu lực xử phạt vi phạm hành chính mới đạt kết quả); bổ sung quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi “Hoạt động không đúng thời gian đăng ký trong giấy phép hoạt động”.

Trả lời:

Bộ Y tế đã tiếp nhận được phản ánh của một số đơn vị, địa phương về các bất cập của Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, trong đó bao gồm cả các tồn tại, bất cập liên quan đến quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh.

Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, để có cơ sở đề xuất với Chính phủ việc sửa đổi, bổ sung Nghị định này, cơ quan chủ trì soạn thảo phải lập hồ sơ đề xuất xây dựng Nghị định, trong đó bao gồm báo cáo tổng kết thi hành pháp luật và báo cáo đánh giá tác động của Nghị định. Thực hiện quy định nêu trên, hiện nay, Bộ Y tế đang tiến hành sơ kết 05 năm thực hiện Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế để xác định các nội dung cần sửa đổi, bổ sung cũng như nội dung cần đánh giá tác động. Theo dự kiến, các hoạt động này sẽ hoàn thành trong năm 2017 và dự kiến trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 176/2013/NĐ-CP trong năm 2018, trong quá trình xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 176/2013/NĐ-CP, Bộ Y tế sẽ nghiên cứu để bổ sung các quy định liên quan đến kiến nghị của cử tri.

97. Cử tri tỉnh Nam Định kiến nghị: Mô hình bộ máy tổ chức y tế tuyến huyện còn nhiều bất cập, đề nghị Bộ Y tế xem xét, điều chỉnh để nâng cao hiệu quả hoạt động của y tế cơ sở.

Trả lời:

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của y tế cơ sở và khắc phục những bất cập trong thời gian qua, Bộ Y tế và Bộ Nội vụ đã ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện tổ chức bộ máy y tế tại địa phương, trong đó:

Tại tuyến tỉnh là Thông tư liên tịch số 51/2015/TTLT-BYT-BNV ngày 11/12/2015 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của sở y tế thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và phòng y tế thuộc ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

Tại tuyến huyện là Thông tư số 37/2016/TT-BYT của Bộ Y tế hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của trung tâm y tế tuyến huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương. Ở tuyến huyện, thực hiện mô hình Trung tâm y tế hai chức năng: phòng chống dịch bệnh và khám chữa bệnh.

98. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế thì việc thanh toán chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa cơ quan bảo hiểm y tế với cơ sở khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế dựa trên từng hạng cơ sở khám, chữa bệnh và theo Thông tư số 40/2015/TT-BYT ngày 16/11/2015 của Bộ Y tế thì cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân được xếp tương đương hạng I, II, III. Đến nay, Bộ Y tế chưa có quy định về tiêu chí xếp hạng các bệnh viện tư nhân, do đó gây khó khăn trong việc thực hiện giá viện phí và áp dụng quy định thông tuyến khám, chữa bệnh. Đề nghị Bộ Y tế sớm ban hành quy định về tiêu chí xếp hạng bệnh viện tư nhân.

Trả lời:

Để tăng cường công tác quản lý Bệnh viện tư nhân hoạt động theo quy định của Pháp luật, đánh giá năng lực hoạt động và khuyến khích bệnh viện tư nhân không ngừng hoàn thiện chất lượng khám, chữa bệnh, đáp ứng nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để bệnh viện tham gia khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế, chuyển viện theo tuyến, phân tuyến kỹ thuật, Bộ Y tế (Cục Quản lý Khám chữa bệnh) đã dự thảo Thông tư Hướng dẫn xếp hạng Bệnh viện tư nhân. Hiện nay Bộ Y tế đang hoàn thiện dự thảo để ban hành Thông tư theo quy định.

99. Cử tri tỉnh Lào Cai kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế quan tâm và có biện pháp ngăn chặn việc chênh lệch giới tính khi sinh con.

Trả lời:

Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã triển khai một số biện pháp nhằm ngăn chặn việc chênh lệch giới tính khi sinh:

1. Ban hành Chỉ thị số 04/BYT-CT ngày 15/3/2016 về việc tăng cường giải quyết tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, trong đó Bộ Y tế có giao trách nhiệm thực hiện đối với:

- Giám đốc Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thủ trưởng Y tế các Bộ, ngành:

+ Tăng cường tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố các Bộ, ngành bố trí kinh phí, ban hành kế hoạch can thiệp nhằm giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tại địa phương;

+ Tăng cường phối hợp liên ngành, tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát các cơ sở cung cấp dịch vụ liên quan đến chẩn đoán giới tính thai nhi và phá thai; các cơ sở sản xuất, kinh doanh các loại ấn phẩm, sản phẩm truyền thông có  nội dung liên quan đến lựa chọn giới tính; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo đúng quy định của pháp luật;

+ Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục về thực trạng, nguyên nhân và hệ lụy của tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh và quy định của pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi. Đồng thời chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến các luật có ảnh hưởng đến tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh(MCBGTKS)như: Luật bình đẳng giới; Luật phòng, chống bạo lực gia đình; Luật hôn nhân và gia đình…nêu cao vai trò của phụ nữ trong xã hội hiện nay; 

+ Tập huấn bắt buộc các quy định của pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi cho đội ngũ cán bộ y tế cung cấp các dịch vụ có liên quan đến lựa chọn giới tính thai nhi;

+ Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các hoạt động giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh tại địa phương;

+ Định kỳ hàng năm báo cáo kết quả thực hiện Chỉ thị về Bộ Y tế (Tổng cục dân số-kế hoạch hóa gia đình) trước ngày 10/12. 

- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:

+ Đưa chỉ tiêu về tỷ số giới tính khi sinh vào kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội hàng năm của địa phương.

+ Tăng cường đầu tư cho các hoạt động kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh.

+ Chỉ đạo chính quyền các cấp, Sở Y tế và các Sở, Ban ngành liên quan đẩy mạnh, tăng cường phối hợp thực hiện các giải pháp can thiệp và xây dựng, ban hành các chính sách của địa phương nhằm giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.

2. Triển khai Quyết định số 468/QĐ-TTg ngày 23/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016-2025. Đến nay, Bộ Y tế đã thực hiện những nội dung sau:

2.1. Xây dựng và thực hiện Kế hoạch triển khai Đề án kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016-2020 (Quyết định số 3382/QĐ-BYT ngày 05/7/2016): trong đó đã đưa ra 1 mục tiêu tổng quát: khống chế tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh, tiến tới đưa tỷ số giới tính khi sinh trở lại mức cân bằng tự nhiên; và 02 mục tiêu cụ thể: Mục tiêu 1: Giảm tốc độ tăng tỷ số giới tính khi sinh xuống dưới mức 0.46 điểm phần trăm/năm, để tỷ số này dưới mức 115 vào năm 2020. Ở các tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh từ 115 trở lên, giảm tỷ số giới tính khi sinh ít nhất là 0,4 điểm phần trăm/năm giai đoạn 2016-2020; Mục tiêu 2: Giảm tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh, tạo cơ sở thuận lợi để đưa tỷ số này đạt khoảng 107 sau năm 2015, đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên. Để thực hiện các mục tiêu nay, Bộ Y tế đề ra 04 nhóm giải pháp và 11 nhiệm vụ:

- Nhóm giải pháp số 1: Truyền thông nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi đối với công tác kiểm soát MCBGTKS nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động vận động về can thiệp giảm thiểu MCBGTKS, giáo dục các đối tượng có liên quan trực tiếp đến việc lựa chọn giới tính thai nhi; thực hiện giáo dục về giới, bình đẳng giới với nội dung, hình thức phù hợp cho từng cấp học;

- Nhóm giải pháp số 2: Các chính sách khuyến khích, hỗ trợ: xây dựng, thử nghiệm và thực hiện các chính sách nhằm hỗ trợ, nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ và trẻ em gái trong gia đình, cộng đồng và xã hội góp phần giảm thiểu MCBGTKS;

- Nhóm giải pháp số 3: Nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về cấm các hình thức lựa chọn giới tính thai nhi;

- Nhóm giải pháp số 4: Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tích cự tranh thủ sự giúp đỡ về tài chính, kỹ thuật và kinh nghiệm của các nước, các tổ chức quốc tế trong việc thực hiện Đề án.

Tổ chức thực hiện Đề án giai đoạn 2016-2020. Kinh phí bao gồm kinh phí Trung ương và kinh phí địa phương trong đó kinh phí Trung ương chiếm khoảng 30%, kinh phí địa phương chiếm khoảng 70% .

2.2. Hướng dẫn Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng và triển khai kế hoạch thực hiện Đề án kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016-2020 (Công văn số 4111/BYT-TCDS ngày 05/7/2016) tại địa phương

2.3. Sau một năm triển khai Đề án, mặc dù nguồn kinh phí chương trình mục tiêu bị cắt giảm; các địa phương đang trong quá trình xây dựng Đề án, ngân sách ở các cấp bố trí chưa đảm bảo triển khai chương trình một cách đồng bộ, nhưng trên bình diện chung của cả nước năm 2016 vẫn đạt chỉ tiêu kế hoạch ngành DS-KHHGĐ đề ra: “Khống chế tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh hàng năm ở mức dưới 0,4 điểm phần trăm/năm”. Năm 2016, tỷ số giới tính khi sinh là 113/100 tăng 0,2 điểm phần trăm so với năm 2015 (tỷ số giới tính khi sinh năm 2015 là 112,8%). Tuy nhiên, vẫn còn một số địa phương không đạt được chỉ tiêu giảm tỷ số giới tính khi sinh bình quân 0,4 điểm phần trăm/ năm.

Công tác kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh là một công việc khó khăn, đòi hỏi cần có sự bền bỉ và lâu dài. Để hoạt động triển khai Đề án trong những năm tiếp theo đạt được mục tiêu đề ra cần đảm bảo kinh phí, và sự chung tay của toàn xã hội.

100. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Cử tri đề nghị quan tâm, có chiến lược quốc gia nâng cao chất lượng dân số Việt Nam (dinh dưỡng, rèn luyện thể chất, …), vì hiện nay, thể trạng, thể lực của người Việt không bằng nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á và thế giới.

Trả lời:

Để nâng cao chất lượng dân số Việt Nam, từ năm 2007 Bộ Y tế (Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình) đã thử nghiệm triển khai và đã đạt được những kết quả quan trọng trong cải thiện thể lực và trí tuệ con người. Một trong các nội dung là triển khai các hoạt động can thiệp vào từng giai đoạn của phát triển của con người: vị thành niên, thanh niên, trước kết hôn, trước sinh, sau sinh. Cụ thể:

- Sàng lọc trước sinh và sơ sinh (SSTS&SLSS) áp dụng những phương pháp, kỹ thuật khoa học tiên tiến, hiện đại là một trong những giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao chất lượng dân số. SLTS&SLSS nhằm phát hiện, can thiệp và điều trị các bệnh tật, các rối loạn chuyển hóa di truyền ngay trong giai đoạn bào thai và sơ sinh giúp trẻ sinh ra có thể phát triển bình thường hoặc tránh được những hậu qua nặng nề về thể chất và trí tuệ, giảm số người tàn tật, thiểu năng trí tuệ trong cộng đồng, góp phần nâng cao chất lượng dân số.

- Tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân:xây dựng các điểm tư vấn, các dịch vụ thân thiện và các cơ sở khám sức khỏe tiền hôn nhân cung cấp kiến thức, kỹ năng về xây dựng gia đình, nâng cao chất lượng cuộc sống, các biện pháp phòng tránh, xử lý các nguy cơ sinh con bị dị tật, khuyết tật và nguy cơ vô sinh cho nam, nữ thanh niên trước kết hôn.

Để chương trình được đồng bộ triển khai trên cả nước, Bộ Y tế đã tham mưu và được thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020 tại Quyết định số 2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2011 với mục tiêu tổng quát: Nâng cao chất lượng dân số, cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản, duy trì mức sinh thấp hợp lý, giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu dân số và phân bố dân số, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Các mục tiêu, chỉ tiêu của Chiến lược nhằm: ổn định quy mô dân số, nâng cao sức khỏe, giảm bệnh, tật và tử vong ở trẻ sơ sinh; cũng như nâng cao sức khỏe bà mẹ; Cải thiện sức khỏe sinh sản người chưa thành niên, nhóm dân số đặc thù (người di cư, người khuyết tật, người nhiễm HIV, người dân thuộc dân tộc có nguy cơ suy thoái về chất lượng giống nòi); tăng cường chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Trong đó, một số chỉ tiêu về chất lượng dân số:

- Tỷ lệ bà mẹ mang thai được sàng lọc trước sinh đạt 15% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020.

- Tỷ lệ trẻ sơ sinh được sàng lọc đạt 30% vào năm 2015 và 80% vào năm 2020.

Để thực hiện được mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra, Bộ Y tế đã báo cáo và xây dựng nội dung chương trình mục tiêu quốc gia dân số và kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 2012-2015 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1199/QĐ-TTg ngày 31/8/2012.

Để chương trình triển khai thực hiện, ngày 31/10/2012 Bộ trưởng Bộ Y tế ký Quyết định số 4245/QĐ-BYT Phê duyệt các Dự án, Đề án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa gia đình. Trong đó có dự án “Tầm soát dị dạng, bệnh, tật bẩm sinh và kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh” với mục tiêu chung: Nâng cao chất lượng tầm soát dị dạng, bệnh , tật bẩm sinh và kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh nhằm nâng cao chất lượng dân số vầ thể chất, đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển nhân, bền vững của đất nước thông qua việc mở rộng sàng lọc, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh, các can thiệp làm giảm mất cân bằng giới tính khi sinh, tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân; tiếp tục thử nghiệm và mở rộng một số mô hình, giải pháp can thiệp để nâng cao chất lượng dân số đối với các nhóm đối tượng đặc thù. Bao gồm hoạt động đã và đang triển khai như sàng lọc trước sinh và sơ sinh: triển khai tại 63/63 tỉnh/thành phố; Tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân: Triển khai tại 63/63 tỉnh/thành phố trên cả nước.

Trong quá trình triển khai vận dụng các thành tựu khoa học trong quá trình thực hiện cho phù hợp với tình hình điều kiện xã hội – kinh tế của Việt Nam. Kết quả báo cáo giai đoạn 2011-2015, số bà mẹ mang thai và trẻ sơ sinh được sàng lọc đã tăng lên hàng năm và đạt so với Chiến lược đã đề ra.

Hiện nay, Bộ Y tế vẫn đang tiếp tục triển khai các hoạt động nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu của Chiến lược Dân số và sức khỏe sinh sản giai đoạn 2010-2020.

101. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Tình trạng chung hiện nay tại các Trạm y tế xã (nhất là khu vực miền núi) là cơ sở vật chất xuống cấp, thiếu trang thiết bị cần thiết nhưng chậm được đầu tư, nâng cấp; thiếu y, bác sĩ và công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ chưa được quan tâm.

Đề nghị Bộ Y tế xem xét và điều chỉnh lại mô hình tổ chức các cơ sở y tế hiện nay theo hướng giao các trạm y tế, y tế thôn, bản về các địa phương quản lý, để tạo thuận lợi, kịp thời trong việc đầu tư và thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương.

Trả lời:

Theo Nghị định số 117/2014/NĐ-CP ngày 08/12/2014 của Chính phủ quy định về y tế xã, phường, thị trấn, Trạm y tế xã là đơn vị y tế thuộc Trung tâm Y tế quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, được thành lập theo đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.

Theo  Khoản 8 Điều 4 và Khoản 1 Điều 8 của Thông tư số 37/2016/TT-BYT ngày 25/10/2016 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, Trạm Y tế xã/phường/thị trấn là đơn vị y tế trực thuộc Trung tâm Y tế huyện và chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn kỹ thuật của Trung tâm Y tế huyện.

Như vậy, theo các quy định pháp luật hiện hành,Trạm Y tế xã,phường, thị trấn thuộc sự quản lý nhà nước của chính quyền địa phương, về chuyên môn kỹ thuật thì chịu sự chỉ đạo của Trung tâm y tế huyện. Thực tế cho thấy, nhiều địa phương đã chủ động sử dụng ngân sách để đầu tư nâng cấp các Trạm y tế về cơ sở vật chất, trang thiết bị và trình độ chuyên môn của cán bộ y tế xã. Đề nghị cử tri đề xuất ý kiến của mình với Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam để tỉnh quan tâm và tăng cường đầu tư cho các Trạm y tế xã trên địa bàn tỉnh.

102. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Từ khi xuất hiện ca mắc Hội chứng viêm da dày sừng bàn tay, bàn chân đầu tiên vào ngày 19/4/2011, đến ngày 24/12/2014 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ghi nhận 229 trường hợp tại 2 huyện Ba Tơ, Sơn Hà, trong đó có 14 trường hợp tử vong, 57 trường hợp tái phát. Sau nhiều nỗ lực của ngành Y tế từ Trung ương đến tỉnh và chính quyền các cấp ở địa phương, tình hình mắc bệnh đã được khống chế. Tuy nhiên, sau gần 2 năm không có ca bệnh mắc mới, tái phát, đến ngày 17/8/2016, tỉnh Quảng Ngãi phát hiện 02 trường hợp mắc mới Hội chứng viêm da dày sừng bàn tay, bàn chân tại xã Sơn Ba, huyện Sơn Hà. Với những tác động đối với xã hội và sức khỏe nhân dân, tình hình diễn biến khó lường của Hội chứng viêm da dày sừng bàn tay, bàn chân, đề nghị Bộ Y tế hỗ trợ tỉnh Quảng Ngãi có biện pháp xử lý nhằm không để có trường hợp mắc mới hay tái phát Hội chứng viêm da dày sừng bàn tay, bàn chân (Quảng Ngãi).

Trả lời:

Hội chứng viêm da dày sừng bàn tay, bàn chân đã được các cơ quan chuyên môn Bộ Y tế xác định nguyên nhân là do nhiễm độc tố vi nấm do ăn gạo bị mốc trên cơ địa người bị thiếu vi chất dinh dưỡng. Nếu người dân thu hoạch, cất giữ, bảo quản và sử dụng lương thực không đảm bảo chất lượng để cho nấm mốc phát triển thì vẫn tiềm ẩn nguy cơ tái mắc bệnh trong cộng đồng. Để khống chế bệnh, can thiệp chính là sử dụng thóc, gạo không bị nấm mốc kết hợp với hỗ trợ tăng cường dinh dưỡng và vệ sinh môi trường.

Thời gian qua, Bộ Y tế đã tích cực phối hợp với UBND tỉnh Quảng Ngãi, các cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Y tế và các Bộ, ngành để chỉ đạo triển khai đồng bộ các biện pháp phòng, chống. Các biện pháp can thiệp đã mang lại hiệu quả khống chế tỷ lệ mắc và tử vong do hội chứng viêm da dày sừng bàn tay, bàn chân: năm 2011-2012 mắc 216 ca, năm 2013 giảm còn 18 ca, năm 2014 còn 4 ca và năm 2016 ghi nhận 2 ca mắc mới tại huyện Sơn Hà.

Đối với 2 trường hợp mắc bệnh trong năm 2016 (bệnh nhân Đinh Văn Nguyên và bệnh nhân Đinh Văn Hoa tại xã Sơn Ba, huyện Sơn Hà), ngay khi nhận được thông tin Bộ Y tế đã chỉ đạo Viện Pasteur Nha Trang tổ chức đoàn công tác phối hợp với ngành y tế địa phương đi giám sát, điều tra dịch tễ và hỗ trợ các hoạt động can thiệp tại địa phương. Bộ Y tế cũng đã có Công văn gửi Sở Y tế và các đơn vị liên quan để chỉ đạo tăng cường các hoạt động phòng chống hội chứng viêm da dày sừng bàn tay, bàn chân, tập trung vào các biện pháp sau:

1. Giám sát dịch tễ, phát hiện sớm và quản lý hiệu quả các trường hợp bệnh, người có men gan cao và người có nguy cơ mắc bệnh tại cộng đồng; tăng cường công tác khám, chẩn đoán và điều trị kịp thời các trường hợp mắc bệnh.

2. Phối hợp với các ban ngành, đoàn thể địa phương tuyên truyền, hướng dẫn người dân thu hoạch, bảo quản và sử dụng thóc, gạo bảo đảm chất lượng, phòng tránh nhiễm vi nấm mốc.

3. Tuyên truyền, hướng dẫn người dân ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, vitamin và khoáng chất để nâng cao thể trạng.

103. Cử tri tỉnh Yên Bái kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ trưởng Bộ Y tế thực hiện lợi hứa tại Lễ ra quân “Đưa bác sỹ trẻ tình nguyện về công tác tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, ưu tiên 62 huyện nghèo” năm 2014, được tổ chức tại huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái, vì đến nay, việc này chưa được thực hiện (Yên Bái).

Trả lời:

Theo quy định của Dự án “Đưa bác sỹ trẻ tình nguyện về công tác tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, ưu tiên 62 huyện nghèo” theo Quyết định số 585/QĐ-BYT,các bác sỹ trẻ trước khi được cử về công tác tại các vùng khó khăn phải được đào tạo để đạt trình độ chuyên khoa cấp I.

Thực hiện dự án này, ngày 01/6/2015, Bộ Y tế đã khai giảng khóa đầu tiên đào tạo chuyên khoa I cho các bác sĩ tham gia dự án. Do vậy, đến tháng 7/2017 thì các bác sĩ trẻ tham gia dự án mới ra trường và sẽ được cử đi tình nguyện làm việc tại các huyện nghèo, trong đó có Bệnh viện huyện Mù Cang Chải.

104. Cử tri tỉnh Bắc Kạn kiến nghị: Đề nghị xem xét lại danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật quy định tại Thông tư Liên tịch số 20/2016/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 30/6/2016, có 10 loại bệnh liên quan đến ung thư là không hợp lý vì không có đối tượng nào bị mắc bệnh ung thư lại sống được hơn 30 năm để chờ hưởng chế độ chất độc hóa học (Bắc Kạn).

Trả lời:

Thực hiện sự chỉ đạo của Phó Thủ tướng tại Thông báo số 196/TB-VPCP ngày 09/10/2007 của Văn phòng Chính phủ về việc giao Bộ Y tế ban hành tiêu chí (sửa đổi) để xác định đối tượng là nạn nhân chất độc da cam/dioxin, Bộ Y tế tiến hành xây dựng Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin để làm căn cứ tổng điều tra nạn nhân chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam.

Việc xây dựng và ban hành Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật theo Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20/2/2009 là vần đề khoa học, nhân đạo, có liên quan đến trong nước và quốc tế, đảm bảo quyền lợi của những người bị phơi nhiễm chất độc hóa học/dioxin nên quá trình biên soạn danh mục được thực hiện công phu và cẩn thận.

Nguyên tắc để xây dựng Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin hoàn toàn dựa trên những kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học về ảnh hưởng của chất độc hóa học/dioxin lên sức khỏe con người đã được công bố ở trên thế giới (Hoa Kỳ) và trong nước.

Trong quá trình xây dựng Danh mục bệnh tật này, Bộ Y tế đã tổ chức nhiều hội thảo, xin ý kiến đông đảo các nhà khoa học trong nước và quốc tế. Bộ Y tế đã thành lập Hội đồng khoa học gồm có 16 người, là các Giáo sư, Tiến sỹ, Bác sỹ chuyên gia đầu ngành của các chuyên ngành, Hội đồng đã thận trọng rà soát, thẩm định từng bệnh, từng tên bệnh trong Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin.

Sau một thời gian triển khai thực hiện Quyết định số số 09/2008/QĐ-BYT, ngày 25/2/2011, Bộ trưởng Bộ Y tế ký Quyết định số 539/QĐ-BYT thành lập Hội đồng chuyên môn sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn chẩn đoán bệnh, tật, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/ dioxin. Hội đồng chuyên môn đã tổ chức nhiều cuộc họp để rà soát lại acsc bệnh, tật, dị dạng, dị tật ban ahnfh kèm theo Quyết định số 09/2008/Q Đ-TTg nêu trên và kết luận: Hiện tại, Hội đồng thấy chưa có đủ cơ sở khoa học để sửa đổi, bổ sung Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20/2/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/ dioxin; đồng thời Hội đồng tiếp tục nghiên cứu, xem xét nếu có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn, Hội đồng sẽ đề xuất Bộ Y tế sửa đổi, bổ sung danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin ban hành kèm theo Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20/2/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế.

   Hội đồng chuyên môn đã họp nhiều phiên, căn cứ vào các tài liệu khoa học có liên quan ở trong nước và quốc tế đã được công bố để rà soát và xem xét cơ sở khoa học, sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin.

Phiên họp gần đây nhất vào ngày 25/5/2016, Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế đã tổ chức họp để rà soát lại danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật được ban hành tại Thông tư số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH. Hội đồng đã đi đến kết luận: Hiện nay, chúng ta chưa có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn để bổ sung, sửa đổi Danh mục các bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin đã được ban hành. Do vậy, cho đến nay Danh mục bệnh tật ban hành kèm theo Thông tư số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH nêu trên, nay được ban hành tại Thông tư liên tịch số 20/2016/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 30/6/2016 là chưa thay đổi.

Theo khoa học và thực tiễn, không phải ai bị phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin thì đều bị mắc bệnh. Sau khi bị phơi nhiễm, việc bị mắc bệnh hay không mắc bệnh, bị mắc bệnh nào và thời gian nào thì bị mắc bệnh còn phụ thuộc vào sự đề kháng và sức khỏe của từng người cụ thể. Căn cứ vào danh mục bệnh tật và tình trạng mắc bệnh của mỗi đối tượng cụ thể mà Hội đồng Giám định y khoa đưa ra kết luận về tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi đối tượng để ngành Lao động-Thương binh và Xã hội giải quyết chế độc chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. 

Bộ Y tế tiếp tục giao cho Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế tiếp tục nghiên cứu, khi có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn, sẽ báo cáo Bộ trưởng Bộ Y tế để xem xét sửa đổi, bổ sung Danh mục các bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin.

105. Cử tri tỉnh Quảng Nam, Nam Định kiến nghị: Đề nghị xem xét, điều chỉnh Thông tư liên tịch số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 18/11/2013 theo hướng bỏ Bệnh thần kinh ngoại biên cấp tính hoặc bán cấp tính trong 17 loại bệnh được quy định tại Điều 2, Thông tư liên tịch số 41, vì quy định để giám định được bệnh này là không phù hợp với thực tế và hầu như không ai giám định được (Quảng Nam).

Trong thực hiện chế độ chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam, trong danh mục bệnh, tật, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm chất độc hóa học/dioxin, có quy định bệnh đái tháo đường type 2 nhưng chưa quy định rõ cụ thể tỷ lệ bao nhiêu phần trăm. Vì vậy, cử tri kiến nghị các Bộ, ngành chức năng hướng dẫn cụ thể để triển khai đồng bộ, thống nhất tại các địa phương (Nam Định).

Trả lời:

Bộ Y tế đã nhận được nhiều ý kiến của cử tri đề nghị xem xét, sửa đổi, bổ sung danh mục bệnh tật nêu trên và Bộ Y tế đã thành lập Hội đồng chuyên môn để rà soát, chỉnh sửa bổ sung danh mục bệnh tật này. Hội đồng chuyên môn đã họp nhiều phiên, căn cứ vào các tài liệu khoa học có liên quan ở trong nước và quốc tế đã được công bố để rà soát và xem xét cơ sở khoa học, sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin.

Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế đã tổ chức họp để rà soát lại danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật được ban hành tại Thông tư số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH. Hội đồng đã tham khảo các tài liệu khoa học của các nước nghiên cứu về những ảnh hưởng của chất độc hóa học/dioxin lên sức khỏe con người, trong đó có Hoa Kỳ và đi đến kết luận: Hiện nay, chúng ta chưa có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn để bổ sung, sửa đổi hay loại bỏ Danh mục các bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin đã được ban hành. Do vậy, Danh mục bệnh tật ban hành kèm theo Thông tư số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH nêu trên, nay được ban hành tại Thông tư liên tịch số 20/2016/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 30/6/2016 là chưa thay đổi.

106. Cử tri tỉnh Nam Định kiến nghị: Trong thực hiện chế độ chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam, trong danh mục bệnh, tật, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm chất độc hóa học/dioxin, có quy định bệnh đái tháo đường type 2 nhưng chưa quy định rõ cụ thể tỷ lệ bao nhiêu phần trăm. Vì vậy, cử tri kiến nghị các Bộ, ngành chức năng hướng dẫn cụ thể để triển khai đồng bộ, thống nhất tại các địa phương (Nam Định).

Trả lời:

Liên quan đến khám giám định bệnh tiểu đường typ 2: Ngày 29/6/2016, Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Quyết định số 3201/QĐ-BYT về việc phê duyệt Tài liệu chuyên môn “Hướng dẫn chẩn đoán bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hoá học/dioxin” và Bộ Y tế giao cho Viện Giám định y khoa biên soạn tập tài liệu “Hướng dẫn giám định y khoa bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin trên cơ sở tài liệu chuyên môn ban hành kèm theo Quyết định số 3201/QĐ-BYT ngày 29/6/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế, trong bài hướng dẫn giám định bệnh tiểu đường typ 2, đã quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể do bệnh này. Tài liệu này đã được Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế thông qua, đang trình Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt để triển khai thực hiện.

107. Cử tri tỉnh Hà Nam, TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Hiện nay việc quản lý mạng lưới thông tin quảng cáo, tiếp thị các loại máy móc, thuốc chữa bệnh, thực phẩm chức năng còn nhiều bất cập, việc quảng cáo không theo đúng nội dung sản phẩm, không kiểm tra chất lượng sản phẩm. Vì vậy, người dân rất khó khăn trong việc đánh giá và sử dụng sản phẩm. Đề nghị Bộ Y tế phối hợp quản lý chặt chẽ hoạt động này nhằm bảo vệ sức khỏe và quyền lợi của người dân.

Trả lời:

1. Đối với hoạt động quảng cáo máy móc, trang thiết bị y tế

Trước đây hoạt động quảng cáo thực hiện theo Pháp lệnh Quảng cáo số 39/2001/PL-UBTVQH10 16/11/2001, theo đó quảng cáo trang thiết bị y tế phải được Bộ Y tế kiểm tra, thẩm định về nội dung. Luật Quảng cáo số 16/2012/QH13 ngày 21/6/2012 được Quốc hội ban hành theo xu hướng thông thoáng hơn đối với doanh nghiệp, thực hiện theo hướng hậu kiểm. Bộ Y tế đã đề nghị bổ sung việc xác nhận nội dung quảng cáo trang thiết bị y tế (cùng với thực phẩm; thuốc chữa bệnh; khám bệnh, chữa bệnh) vào dự thảo nghị định hướng dẫn Luật Quảng cáo do đây là những hàng hóa dịch vụ đặc biệt liên quan trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng người sử dụng. Hiện nay việc xác nhận nội dung quảng cáo chỉ thực hiện đối với một số đối tượng trang thiết bị y tế, còn những trang thiết bị y tế không thuộc đối tượng xác nhận thì doanh nghiệp được tự quảng cáo.

Tại một số địa phương việc triển khai tổ chức thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về hoạt động quảng cáo chưa được tiến hành thường xuyên do lực lượng cán bộ thanh tra còn thiếu, vì vậy đã dẫn đến tình trạng một số vi phạm về quảng cáo chưa được xử lý kịp thời.

Năm 2016, được sự nhất trí của Quốc hội, Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 36/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 về Quản lý Trang thiết bị y tế. Đây là văn bản pháp quy cao nhất về lĩnh vực TTBYT, tạo hành lang pháp lý để quản lý TTBYT một cách đồng bộ từ khi sản xuất, nhập khẩu đến khi phân phối, quản lý, sử dụng tại các cơ sở y tế; cũng như đáp ứng yêu cầu, lộ trình hội nhập khu vực ASEAN, đồng thời quy định cụ thể trách nhiệm cũng như cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành và Chính quyền các cấp trong việc quản lý hoạt động kinh doanh trang thiết bị y tế. Triển khai Nghị định, năm 2017, Bộ Y tế đã có kế hoạch phối hợp cùng các đơn vị liên quan nghiên cứu xây dựng hệ thống giám sát, cảnh báo về chất lượng trang thiết bị y tế và hệ thống quản lý chất lượng trang thiết bị y tế để góp phần quản lý chặt chẽ hơn về nội dung này nhằm bảo vệ sức khỏe và quyền lợi của người dân.

2. Đối với hoạt động quảng cáo thuốc

Theo các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, Bộ Y tế có trách nhiệm phối hợp với Bộ Văn hóa thể thao du lịch quản lý nhà nước về quảng cáo; quản lý nhà nước về nội dung quảng cáo đối với các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ thuộc  ngành, lĩnh vực được phân công.

Đối với quảng cáo thuốc, Bộ Y tế thực hiện việc xác nhận nội dung quảng cáo. Việc xác nhận nội dung căn cứ các văn bản:

- Luật Quảng cáo.

- Luật Dược.

- Nghị định số 181/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quảng cáo.

- Thông tư số 09/2015/TT-BYT ngày 25/05/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định về việc xác nhận nội dung quảng cáo đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Y tế.

Do đó, các thông tin trong nội dung quảng cáo thuốc khi đã được Bộ Y tế xác nhận đều đảm bảo khoa học, chính xác, rõ ràng, phù hợp với trình độ hiểu biết của cộng đồng.

Đối với việc quản lý hoạt động quảng cáo thuốc tại các cơ sở do Bộ Y tế quản lý như các bệnh viện, phòng khám, nhà thuốc… Bộ Y tế thường xuyên thực hiện thanh kiểm tra để đảm bảo các tổ chức, cá nhân tuân thủ đúng các quy định trong lĩnh vực này. Đối với việc quản lý quảng cáo thuốc trên các phương tiện thông tin đại chúng, Bộ Y tế cũng đã nhiều lần có văn bản gửi các cơ quan báo, đài là nơi đăng tải nội dung quảng cáo thuốc đề nghị phối hợp với Bộ Y tế trong việc quản lý hoạt động quảng cáo thuốc.

Luật Dược 2016 có hiệu lực từ 01/01/2017, Nghị định hướng dẫn Luật Dược 2016 sắp được ban hành, trong đó có bổ sung quy định về các thông tin, hình ảnh không được có trong nội dung quảng cáo thuốc. Trong đó, nội dung quảng cáo thuốc phải chính xác, trung thực, khách quan, phù hợp với chất lượng của thuốc và không gây hiểu lầm cho người sử dụng.

Vì vậy, các quy định quản lý các hoạt động quảng cáo thuốc ngày càng chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ sức khỏe và quyền lợi của người dân. Tuy nhiên, để tăng cường hơn nữa hiệu quả quản lý, cần có sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ ngành liên quan như Bộ VHTTDL, Bộ Thông tin và truyền thông, Đài Truyền hình VN, Đài Tiếng nói VN… Trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tăng cường chỉ đạo hệ thống thanh tra y tế để kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các quy định về quảng cáo thuốc.

 

Bộ Y Tế trả lời về việc trả lời, giải quyết 69 kiến nghị cử tri gửi đến kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV  tại Công văn số 1927/BYT-VPB1 ngày 14/4/2017 như sau.

108. Cử tri tỉnh Đắk Nông, Quảng Ngãi kiến nghị: Theo cử tri phản ánh, việc khám, chữa bệnh là một trong những nhu cầu bức thiết của nhân dân nhưng hạ tầng bệnh viện, phòng bệnh, trang thiết bị y tế, chất lượng đội ngũ y bác sĩ, chất lượng dịch vụ (nhất là các bệnh viện tuyến dưới),… chưa đáp ứng nhu cầu, tình trạng quá tải ở các bệnh viện vẫn diễn ra thường xuyên, gây khó khăn, thiệt thòi cho dân. Cử tri đề nghị ngành y tế phải có quyết sách khả thi trong huy động các nguồn lực đầu tư phát triển ngành y tế.

Trả lời:

Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã đưa ra các định hướng nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu về huy động vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng y tế đến năm 2020, đảm bảo tính khả thi và phù hợp với điều kiện phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ. Trong điều kiện ngân sách đầu tư cho ngành Y tế còn hạn chế, Bộ Y tế đã triển khai nghiên cứu nhiều giải pháp huy động nguồn vốn đầu tư phát triển hạ tầng y tế, trong đó tiếp tục ưu tiên tăng đầu tư từ nguồn vốn xã hội hóa, kết hợp công tư (PPP) và các nguồn vốn hợp pháp khác. Cụ thể như sau:

1. Triển khai vay vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị

Ngày 15/12/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 93/NQ-CP về một số cơ chế, chính sách phát triển y tế. Nghị quyết này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, nguồn kinh phí đầu tư từ ngân sách Nhà nước rất hạn hẹp, nguồn vốn ODA cũng dần bị thu hẹp, kêu gọi đầu tư cho y tế bằng hình thức hợp tác đối tác công tư gặp nhiều khó khăn do hành lang pháp lý chưa đầy đủ, lĩnh vực y tế là lĩnh vực an sinh xã hội liên quan trực tiếp đến con người nên hết sức nhạy cảm, nhiều nhà đầu tư còn do dự và chưa mặn mà, thì những hình thức đầu tư, cơ chế chính sách tại Nghị quyết số 93/NQ-CP đã tạo động lực đẩy mạnh hoạt động xã hội hoá đầu tư vào y tế, nhất là đầu tư vào hạ tầng, nâng cao chất lượng dịch vụ khám, điều trị cho bệnh nhân.

Nhờ thực hiện chủ trương xã hội hóa, trong 10 năm qua, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đã đạt được những thành quả đáng khích lệ, được nhân dân và cộng đồng quốc tế ghi nhận. Nhiều mục tiêu, chỉ tiêu đề ra trong các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ liên quan đến lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đã đạt và vượt mức kế hoạch, cao hơn so với các quốc gia có cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Hệ thống y tế bao gồm y tế công lập và y tế tư nhân đã có bước phát triển mới. Mạng lưới y tế cơ sở ngày càng được củng cố, hoàn thiện, phương thức hoạt động có nhiều đổi mới. Năng lực dự báo, phát hiện và khống chế dịch bệnh được nâng cao, ngăn chặn kịp thời nhiều dịch bệnh nguy hiểm, dịch bệnh mới nổi, không để dịch lớn xẩy ra. Đã có đột phá trong đầu tư, hoàn thành việc đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp 610/766 bệnh viện từ nguồn trái phiếu chính phủ, đang triển khai xây dựng 05 bệnh viện trung ương và tuyến cuối hiện đại, ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực.Hầu hết, các bệnh viện tuyến Trung ương đã được đầu tư nâng cấp, mở rộng như: Bệnh viện K, Bệnh viện Nhi, Bệnh viện Nội tiết, Bệnh viện Lão khoa, Bệnh viện Da liễu...

2. Thực hiện liên doanh liên kết lắp đặt thiết bị

Qua tổng hợp báo cáo của 22 Sở Y tế và 16 bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế: đến nay trong ngành Y tế triển khai khoảng 810 đề án liên doanh, liên kết với tổng số vốn là 3.882 tỷ đồng. Việc liên kết lắp đặt thiết bị tại các bệnh viện đã góp phần phát triển kỹ thuật, nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị, nâng cao hiệu quả chẩn đoán và điều trị, phát hiện sớm, chính xác bệnh tật, giảm tỷ lệ tử vong. Nhiều kỹ thuật mới, kỹ thuật cao đã được thực hiện làm cho trình độ kỹ thuật y tế của Việt Nam đang dần tiến bộ ngang với các nước tiên tiến trong khu vực. Các thiết bị xã hội hoá chủ yếu là thiết bị chẩn đoán, điều trị, kỹ thuật cao có giá trị lớn mà ngân sách không thể trang bị được như: 03 máy PET.CT (tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, Bệnh viện Bạch Mai), CT-Scanner các loại (đã có 01 hệ thống 256 lớp cắt, 128 lớp cắt, nhiều hệ thống 64 lát cắt); hệ thống cộng hưởng từ (MRI), hệ thống gia tốc tuyến tính, các thiết bị phá sỏi ngoài cơ thể, mổ Phaco, siêu âm màu, các máy xét nghiệm…

3. Xây dựng các khu khám, điều trị theo yêu cầu

Một số bệnh viện đã huy động vốn để đầu tư khu khám bệnh theo yêu cầu, chọn thầy thuốc khám, xây dựng một số buồng bệnh có điều kiện dịch vụ tốt hơn như phòng có ít giường hơn, có trang bị ti-vi, tủ lạnh hoặc suất ăn tại giường. Khu điều trị này nằm trong khuôn viên bệnh viện, về nguyên tắc không được làm ảnh hưởng đến số giường bệnh kế hoạch được giao.

Theo kết quả kiểm tra bệnh viện giai đoạn 2012-2014, tỷ lệ giường bệnh theo yêu cầu tại các bệnh viện công lập là 5%, trong đó các bệnh viện Trung ương là 11,1%, các bệnh viện tỉnh đạt 4,8%, các bệnh viện huyện chỉ có 3%. Tại khu vực này thì giá khám bệnh, giá giường bệnh được tính theo nguyên tắc bảo đảm đủ bù đắp chi phí và có tích lũy theo Nghị định 43 nên mức thu cao hơn nhiều so với giá khám bệnh, giá ngày giường bệnh do Bộ Y tế hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định của bệnh viện. Nhờ đó bệnh viện có thêm nguồn thu để bù đắp các chi phí chưa được thu đối với khu vực bảo hiểm y tế và tăng thêm thu nhập cho cán bộ y tế. Vai trò quản lý nhà nước đối với khu vực này thể hiện ở: Hướng dẫn nội dung, nguyên tắc xây dựng giá dịch vụ tại Nghị định số 85/NĐ-CP và các văn bản điều hành; chỉ đạo để bảo đảm công bằng trong cung cấp dịch vụ chuyên môn (việc thực hiện các kỹ thuật y học là như nhau, chỉ khác nhau về giường nằm); kiểm tra, giám sát việc quản lý và sử dụng nguồn thu cho đúng các quy định, kể cả việc nộp thuế theo pháp luật.

4. Tăng cường thu hút các dự án đầu tư theo hình thức xã hội hóa, hợp tác công tư (PPP)

Trên cơ sở một số văn bản như: Nghị định số 85/2012/NĐ-CP ngày 15/10/2012 của Chính phủ về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập (cho phép đơn vị sự nghiệp y tế được huy động vốn để thành lập các cơ sở xã hội hóa, hoạt động dịch vụ đáp ứng nhu cầu xã hội); Nghị định số 59/2014/NĐ-CP ngày 16/6/2014 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường; Thông tư số 15/2007/TT-BYT ngày 12/12/2007 về việc hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về việc sử dụng tài sản để liên doanh, liên kết hoặc góp vốn liên doanh mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động của các cơ sở y tế công lập; và các văn bản pháp luật có liên quan khác, các đơn vị sự nghiệp công lập trong ngành Y tế đã chủ động vay vốn, huy động vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ công tác khám, chữa bệnh đáp ứng nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh của người dân.

Việc Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức PPP (NĐ15), Nghị định số 30/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư đã tạo một khuôn khổ pháp lý thống nhất và rõ ràng nhằm tạo điều kiện thúc đẩy thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án hạ tầng và dịch vụ công tại Việt Nam. Các quy định mới đã mở rộng nhiều lĩnh vực áp dụng PPP, tập hợp nhiều dạng thức hợp đồng dự án PPP, cụ thể hóa sự chia sẻ rủi ro với các nhà đầu tư tư nhân, ưu đãi, đảm bảo đầu tư, minh bạch trong lựa chọn nhà đầu tư.

Để đẩy mạnh triển khai các mô hình đầu tư theo hình thức đối tác công tư trong thời gian tới, Bộ Y tế đã thành lập Tổ công tác PPP và đang kiện toàn để thành lập Ban chỉ đạo PPP. Trên cơ sở quy định khung tại Nghị định 15, Bộ Y tế đang tích cực phối hợp với các chuyên gia trong nước, nước ngoài, một số tổ chức quốc tế triển khai xây dựng Thông tư hướng dẫn về thực hiện PPP trong ngành Y tế, dự kiến hoàn thành trong năm 2017; đồng thời nghiên cứu, xây dựng các mô hình đầu tư theo hình thức PPP trong lĩnh vực y tế phù hợp với điều kiện Việt Nam. Việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư sẽ góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng ngành y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ, góp phần  không nhỏ vào công tác chăm sóc sức khỏe người dân Việt Nam.

Với việc thực hiện đồng bộ các chính sách trên đây, thời gian tới cơ sở hạ tầng của các bệnh viện chắc chắn sẽ thay đổi theo hướng tích cực, phục vụ tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân.  

109. Cử tri tỉnh Đà Nẵng, Hà Nội, Thái Bình, TP Hồ Chí Minh, Hưng Yên kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị ngành chức năng tăng cường nguồn lực đầu tư phát triển hệ thống y tế cơ sở, để đảm bảo chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, góp phần giảm tải cho các cơ sở y tế tuyến trên và nhằm thu hút người dân tham gia bảo hiểm y tế (Đà Nẵng, Hà Nội, Thái Bình, TP Hồ Chí Minh).

Câu 6. Cử tri tiếp tục đề nghị tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng đối với Trạm y tế tuyến huyện và tuyến xã (Hưng Yên).

Trả lời:

Việc tăng cường đầu tư cho y tế nói chung, y tế cơ sở nói riêng đã được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và coi đây là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu. Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và chỉ đạo điều hành của Chính phủ đều nhất quán phải tập trung đầu tư cho hệ thống y tế cơ sở, thể hiện ở những văn bản quan trọng như Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 22/01/2002 của Ban Bí thư về củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/2/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới; Nghị quyết số 76/2014/QH13 ngày 24/6/2014; Nghị quyết số 100/2015/QH13 ngày 12/11/2015 của Quốc hội... và các văn bản điều hành của Chính phủ.

Nhận thức rõ tầm ảnh hưởng của y tế cơ sở đối với hệ thống y tế, Bộ Y tế đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2348/QĐ-TTg ngày 05/12/2016 phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong tình hình mới, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các cơ sở y tế tuyến huyện, trạm y tế xã.

Để triển khai thực hiện các nội dung của Đề án Xây dựng và Phát triển y tế cơ sở trong tình hình mới, Bộ Y tế đã trình Thủ tướng Chính phủ xem xét cho phép được triển khai bằng nguồn ngân sách Trung ương hỗ trợ và huy động các nguồn viện trợ để Bộ Y tế và các địa phương tập trung các nguồn lực thực hiện các nội dung của Đề án trong giai đoạn 2017 – 2025.

Bên cạnh đó, thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, hiện nay, Bộ Y tế và một số Vụ, Cục có liên quan của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có một số buổi thảo luận với Ngân hàng Thế giới về dự án đầu tư nâng cấp hệ thống cung ứng dịch vụ y tế tuyến cơ sở, với mục tiêu tạo bước chuyển biến đột phá và toàn diện của y tế cơ sở về tổ chức, nhân lực, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và cơ chế hoạt động hướng tới cung cấp dịch vụ toàn diện, liên tục cho người dân, tổng mức đầu tư khoảng 120 triệu USD (gồm 100 triệu USD vốn vay IBRD và 15 triệu USD viện trợ không hoàn lại, vốn đối ứng khoảng 5 triệu USD).

Bộ Y tế và các cơ quan này cũng đã thảo luận với Ngân hàng phát triển châu Á về Dự án Đầu tư xây dựng, nâng cấp trạm y tế xã vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn, tổng mức đầu tư khoảng 90 triệu USD (gồm 80 triệu USD vốn vay ưu đãi ADF, 10 triệu USD vốn đối ứng). Nếu được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cho thực hiện 02 dự án này thì có thể đầu tư xây dựng mới, nâng cấp hoàn chỉnh khoảng 1.000 trạm y tế xã.

Ngoài ra, Bộ Y tế đang thực hiện Chương trình hỗ trợ chính sách ngành Y tế do EU viện trợ không hoàn lại, tổng số vốn tài trợ khoảng 100 triệu EUR, trong đó có 30 triệu EUR là gói giải ngân cơ bản, 60 triệu EUR là gói giải ngân thưởng trong điều kiện Việt Nam làm tốt các chỉ số, đặc biệt là các chỉ số về chăm sóc sức khỏe tại các tỉnh khó khăn. Khả năng giải ngân đạt khoảng 90 triệu EUR, Bộ Y tế đề nghị dành 45 triệu EUR để đầu tư cho khoảng 250 trạm y tế xã.

110. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Hiện nay, nguồn lực đầu tư của Việt Nam còn hạn chế, vì vậy để đầu tư xây dựng, trang thiết bị trong và phát triển lĩnh vực y học dưới nước và oxy cao áp gặp rất nhiều khó khăn về vốn, trang thiết bị và công nghệ. Viện Y học biển Việt Nam đã hợp tác với Tập đoàn Y học dưới nước và cao áp Australia, phía đối tác thỏa thuận có thể trợ giúp và hợp tác thông qua việc góp vốn và trang thiết vị, công nghệ để phát triển, đặc biệt hỗ trợ cho nhiều tỉnh thành trong việc khai thác thiết bị, sau khoảng 20 năm chúng ta sẽ vừa có công nghệ, vừa có thiết bị. Viện Y học biển Việt Nam đề nghị xem xét, tạo điều kiện về chủ trương và chính sách ưu đãi để đơn vị thực hiện Dự án này (Hải Phòng).

Trả lời:

Bộ Y tế ủng hộ về chủ trương để Viện Y học Biển thực hiện dự án này nhằm tăng cường phát triển lĩnh vực y học dưới nước và oxy cao áp, trên cơ sở phù hợp với Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và Quyết định số 317/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Phát triển Y tế biển đảo đến năm 2020. Tuy nhiên, đề nghị Viện Y học Biển khi thực hiện cần tuân thủ các quy định của Chính phủ về đầu tư và quản lý viện trợ.

Đối với kiến nghị về chính sách ưu đãi để đơn vị thực hiện dự án, trong thời gian qua, Bộ Y tế đã phối hợp với các Bộ ngành, địa phương thực hiện một số chính sách, đầu tư cho y tế biển, đảo, cụ thể như:

- Thực hiện kế hoạch hoá gia đình, phát triển dân số khu vực biển đảo theo đề án 52.

- Bộ Y tế đã phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam chỉ đạo các địa phương triển khai thực hiện chính sách Bảo hiểm y tế cho nhân dân vùng biển, đảo. Theo báo cáo nhanh của các địa phương đến nay đã cấp được gần 100 nghìn thẻ cho các đối tượng cư dân trên các đảo. Chỉ đạo cấp 100% bảo hiểm y tế cho nhân dân trên đảo và ngư dân làm nhiệm vụ đánh bắt xa bờ; chỉ đạo các cơ sở y tế bảo đảm khám, chữa bệnh và cấp cứu cho nhân dân trên biển.

- Chỉ đạo Ban quân dân y các tỉnh ven biển kiện toàn tổ chức các trung tâm y tế quân dân y tại các huyện đảo để tập trung nhân lực, cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh cấp cứu cho nhân dân trên đảo; Đề xuất Chính phủ đầu tư xây dựng các Trung tâm y tế huyện đảo, trước mắt là Trung tâm y tế quân dân y huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) và Bạch Long Vỹ (Hải Phòng) giai đoạn 2017- 2020.

- Bộ Y tế đã đầu tư hệ thống Telemedicine kết nối trung tâm y tế quân dân y huyện đảo Bạch Long Vỹ với Bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng và Viện Y học biển để chỉ đạo, hỗ trợ chuyên môn cho Trung tâm y tế huyện đảo Bạch Long Vỹ. Giai đoạn tới sẽ đầu tư kết nối các Trung tâm y tế quân dân y các huyện đảo còn lại với các bệnh viện Trung ương nhằm đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh cho khu vực biển đảo. Kết nối giữa các tàu cá đánh bắt xa bờ với các Trung tâm tư vấn, hỗ trợ cấp cứu từ xa qua hệ thống Radio HF và các đài duyên hải nhằm tư vấn, hỗ trợ cấp cứu từ xa cho ngư dân đánh bắt xa bờ.

- Chỉ đạo Viện Y học biển và đại học y dược Hải phòng đào tạo cho sinh viên, bác sỹ sau đại học về chuyên ngành y học biển để bảo đảm số lượng và chất lượng nguồn nhân lực y tế cho các tỉnh ven biển, đặc biệt là các huyện đảo. Giao Viện Y học biển và y tế các tỉnh ven biển tổ chức huấn luyện kỹ thuật xử trí, cấp cứu trên biển cho lực lượng thủy thủ tàu và ngư dân.

- Chỉ đạo trung tâm cấp cứu 115 của các tỉnh ven biển phối hợp với trung tâm phối hợp tìm kiếm cứu nạn hàng hải tổ chức cấp cứu, vận chuyển bệnh nhân trên biển; xác định chế độ, chính sách đối với người tham gia cấp cứu, vận chuyển trên biển. Trước mắt Bộ Y tế đề xuất đầu tư Trung tâm y tế 115 Đà Nẵng để nâng cao chất lượng phối hợp với Trung tâm phối hợp tìm kiếm, cứu nạn hàng hải khu vực 2 bảo đảm cấp cứu, vận chuyên bệnh nhân khu vực miền Trung và quần đảo Trường Sa. Phối hợp với Bộ Quốc phòng tổ chức vận chuyển cấp cứu người bị thương, bị bệnh trên các vùng biển, đảo.

- Hợp tác với Hoa kỳ xây dựng trung tâm mô phỏng cấp cứu, điều trị trên biển để đào tạo giảng viên cho một số trường đại học y, các tổ cấp cứu ven biển về kiến thức, kỹ thuật cấp cứu trên khu vực biển đảo.

111. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Cử tri phản ánh, hiện nay cơ sở vật chất phục vụ cho khám, điều trị bệnh nhân còn gặp rất nhiều khó khăn gây áp lực không nhỏ cho đội ngũ y bác sỹ..., bên cạnh đó vẫn còn tồn tại hiện tượng tiêu cực trong công tác khám chữa bệnh tại các bệnh viện, cơ sở y tế. Để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người dân, phấn đấu đưa Hải Phòng trở thành Trung tâm y tế chất lượng cao của vùng Duyên hải Bắc Bộ và giảm tải cho các bệnh viện tuyến trung ương.

Cử tri đề nghị Bộ Y tế quan tâm, ưu tiên bố trí nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở 2 Bệnh viện Hữu nghị Việt-Tiệp, đầu tư trang thiết bị hiện đại để nhận chuyển giao các kỹ thuật điều trị cao, chuyên sâu từ tuyến trung ương; xây dựng cơ chế ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực y tế, tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư xây dựng các bệnh viện tư nhân, nhằm thực hiện tốt công tác xã hội hóa trong lĩnh vực y tế (Hải Phòng).

Trả lời:

Dự án Xây dựng cơ sở 2 Bệnh viện hữu nghị Việt Tiệp là dự án sử dụng vốn Trái phiếu Chính phủ, vốn vay ODA Hàn Quốc, vốn đối ứng từ ngân sách thành phố do Sở Y tế Hải Phòng làm Chủ đầu tư. Việc bố trí nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ xây dựng dự án là trách nhiệm của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng, mà không thuộc thẩm quyền của Bộ Y tế.

Trong điều kiện ngân sách đầu tư cho ngành Y tế còn hạn chế, Bộ Y tế đã triển khai nghiên cứu nhiều giải pháp huy động nguồn vốn đầu tư phát triển hạ tầng y tế, trong đó: tiếp tục ưu tiên tăng đầu tư từ nguồn vốn xã hội hóa, công tư kết hợp (PPP) và các nguồn vốn hợp pháp khác, tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư xây dựng các bệnh viện tư nhân, nhằm thực hiện tốt công tác xã hội hóa trong lĩnh vực y tế.

112. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Hiện nay nước ta có 28 tỉnh, thành phố có biển với khoảng 20 triệu cư dân sống ven bờ biển và 17 vạn người sống ở các đảo với hơn 1 triệu ngư dân đang làm việc trên gần 200.000 tàu cá. Công tác chăm sóc y tế, bảo đảm an toàn sức khỏe, sinh mạng cho lực lượng này là vô cùng cấp thiết. Ngày 07/02/2013, Thủ tướng Chính ban hành Quyết định số 317/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát triển y tế biển, đảo Việt Nam đến năm 2020” (Đề án 317) với mục tiêu bảo đảm cho người dân sinh sống và làm việc ở vùng biển, đảo được tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế cho nhu cầu dự phòng, cấp cứu, khám chữa bệnh và nâng cao sức khỏe, đầu tư phát triển chuyên ngành Y học biển; đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực y tế biển, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực y tế chất lượng cao có trình độ sau đại học về y học biển. Tuy nhiên, hiện nay nguồn lực để thực hiện đề án này còn hạn chế, mạng lưới y tế biển còn rất nhỏ, vừa yếu vừa thiếu cả về con người lẫn vật chất, trang thiết bị vật tư...

Cử tri đề nghị Bộ Y tế phối hợp các Bộ, ngành liên quan sớm bố trí nguồn lực, kinh phí để thực hiện Đề án 317 và đào tạo Y học biển cho các cán bộ, nhân viên y tế và lao động biển để vận hành, phát triển mạng lưới y tế biển, đảo quốc gia (Hải Phòng).

Trả lời:

Bộ Y tế và các Bộ ngành đã tham mưu Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền nhiều chính sách phục vụ phát triển y tế biển đảo, đặc biệt là Luật số 46/2014/QH13 sửa đổi bổ sung một số Điều của Luật Bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12: tại điểm h, khoản 3, điều 12 (đối tượng tham gia bảo hiểm y tế) đã quy định người dân sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người đang sinh sống tại các xã đảo, huyện đảo được nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế.

Về đầu tư cho y tế biển đảo, với tư cách là cơ quan thường trực Ban chỉ đạo quốc gia về y tế biển, đảo, Bộ Y tế đã  trình Thủ tướng Chính phủ kế hoạch đầu tư, nâng cấp một số cơ sở khám chữa bệnh, vận chuyển cấp cứu thuộc Đề án 317 (bao gồm cả danh mục đề xuất của Ban chỉ đạo của Bộ Quốc phòng) đáp ứng nhu cầu cấp bách giai đoạn 2014-2016. Theo đề xuất của Bộ Y tế và một số địa phương, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Y tế rà soát tổng thể việc xây dựng các dự án đầu tư để thực hiện Đề án 317, nếu cần thiết phải xây dựng đề án, kế hoạch chung, bảo đảm tính bao quát, đồng bộ và khả thi cho tất cả các tỉnh, thành phố ven biển trong cả nước, không xây dựng riêng cho bộ ngành, từng vùng, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định (CV số: 9707/VPCP-KGVX ngày 04/12/2014 của Văn phòng Chính phủ).

Căn cứ vào ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và thực hiện Luật Đầu tư công (Luật số 49/2014/QH13 ngày 18/6/2014), Bộ Y tế đã đề xuất chủ trương đầu tư với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính tham mưu với Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 40/2015/QĐ-TTg ngày 14/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020: chương trình mục tiêu đầu tư phát triển y tế địa phương có 3 dự án, trong đó có 01 dự án đầu tư trang thiết bị y tế, cơ sở hạ tầng cho các cơ sở y tế thuộc đề án 317; tuy nhiên, đối tượng hỗ trợ nêu trong Quyết định chỉ là các bệnh viện, trung tâm khám chữa bệnh công lập tuyến tỉnh, do đó việc đề xuất chủ trương đầu tư cho các huyện đảo, xã đảo và các phương tiện vận chuyển trên biển…đang còn vướng mắc cần được tháo gỡ.

Bên cạnh đó, hàng năm Bộ Y tế đã sử dụng một phần kinh phí sự nghiệp y tế (chi cho việc thực hiện đề án 317) cấp cho Viện Y học biển để củng cố kiện toàn 02 đơn vị là Trung tâm Y học dưới nước – cao áp và khoa Cấp cứu biển và Hồi sức tích cực, tổ chức đào tạo, đào tạo liên tục cập nhật kiến thức về Y học biển cho gần 500 cán bộ ngành y tế và hơn 3000 người ngoài ngành y tế; bệnh viện C Đà Nẵng để mua sắm bổ sung một số trang bị đặc thù triển khai một phần nhiệm vụ được giao; sử dụng kinh phí cấp cho dự án kết hợp quân dân y thuộc CTMTQG y tế giai đoạn 2011-2015 để bổ sung trang bị kỹ thuật cho một số huyện đảo (Bạch Long Vỹ, Cồn cỏ, Phú quý, Côn đảo và xã đảo Thổ Chu).

Theo báo cáo, một số bộ ngành, địa phương từ năm 2013 đến nay đã đầu tư cho hệ thống y tế biển, đảo bằng nhiều nguồn ngân sách như sau:

- Bộ Quốc phòng đã đầu tư xây dựng cơ bản bệnh xá quân dân y 78-Phú Quốc; đầu tư sửa chữa, trang bị cho nhiều tầu biển tham gia vận chuyển cấp cứu bệnh nhân trên biển; mua sắm nhiều trang bị đặc dụng phục vụ cấp cứu trên biển;

- Tỉnh Quảng Ninh đã thiết lập và đưa vào sử dụng đường truyền trực tuyến cho Trung tâm Y tế huyện Cô Tô để phục vụ công tác hội chẩn, giao ban; đầu tư Trung tâm oxy cao áp tại Bệnh viện đa khoa Bãi Cháy để hỗ trợ cấp cứu, điều trị cho ngư dân;

- Tỉnh Bình Thuận đã đầu tư nâng cấp bệnh viện quân dân y huyện đảo Phú Quý;

- Tỉnh Kiên Giang đã đầu tư nâng cấp Bệnh viện đa khoa huyện Phú Quốc, Bệnh viện đa khoa Thị xã Hà Tiên và xây mới 03 trạm y tế xã đảo: xã Bãi Thơm, xã Gành Dầu thuộc huyện Phú Quốc, xã Hải Sơn thuộc huyện Kiên Lương; chỉ đạo trạm y tế xã Thổ châu sát nhập với Bệnh xá quân dân y Thổ Chu;

- Tỉnh Cà Mau thành lập Trung tâm y tế 100 giường bệnh tại thị trấn Sông Đốc, xây mới 02 trạm Y tế xã tại huyện đảo Hòn Khoai, huyện Ngọc Hiển và đảo Hòn Chuối, huyện Trần Văn Thời.

113. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Cử tri đề nghị quan tâm đầu tư cơ sở vật chất và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa trong việc chống quá tải tại các bệnh viện tuyến trên (Quảng Bình).

Trả lời:

Thực hiện Quyết định số 92/QĐ-TTg ngày 09/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ về, Bộ Y tế đã tập trung thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp đề ra của Đề án bao gồm: (1) Đầu tư nâng cấp, mở rộng cơ sở hạ tầng bệnh viện để tăng thêm giường bệnh cho các chuyên khoa ung bướu, ngoại - chấn thương, tim mạch, sản và nhi; (2) Thành lập và phát triển mạng lưới bệnh viện vệ tinh; (3)Thí điểm xây dựng mô hình phòng khám bác sĩ gia đình; (4) Tiếp tục củng cố và hoàn thiện mạng lưới trạm y tế xã trong cả nước; tăng cường đầu tư, xây dựng để các trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia theo quy định, gắn với Chương trình xây dựng nông thôn mới; (5) Đẩy mạnh các hoạt động y tế dự phòng; (6) Tăng cường công tác quản lý và nâng cao toàn diện chất lượng bệnh viện; (7) Xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách; (8) Thông tin, truyền thông.

Trên cơ sở chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế đã tích cực tổ chức triển khai, chỉ đạo, xây dựng văn bản, chính sách hỗ trợ thực hiện giảm quá tải bệnh viện.

Đến nay, sau 3 năm thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm tải bệnh viện đã đạt được những kết quả bước đầu, hầu hết các mục tiêu của Đề án đã được thực hiện và đạt được theo tiến độ; tình trạng quá tải bệnh viện đang từng bước được giải quyết, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh và đáp ứng sự hài lòng của người bệnh, cụ thể là:

- Về cơ chế, chính sách hỗ trợ cơ sở khám chữa bệnh: Bên cạnh nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ đã đầu tư cho các dự án trên, trong thời gian qua cũng đã có các cơ chế chính sách để hỗ trợ các cơ sở khám chữa bệnh, địa phương vay vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng bệnh viện. Bộ Y tế cũng đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhà nước, tạo cơ chế, chính sách khuyến khích các bệnh viện đầu tư cơ sở vật chất và tự chủ hoàn toàn.

- Về xây dựng, mở rộng cơ sở hạ tầng bệnh viện: Bộ Y tế tập trung đầu tư và chỉ đạo các địa phương tích cực đầu tư xây dựng, mở rộng cơ sở hạ tầng của các cơ sở y tế; tăng cường đầu tư xây dựng bệnh viện từ năm 2006 thông qua các Đề án 47 và 930,  đến nay phần lớn các dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, tính trong các năm 2012-2016 số được đưa vào sử dụng mới và mở rộng, cải tạo như sau:

+ Số bệnh viện được xây mới: 119 bệnh viện (Tuyến Trung ương: 03; tỉnh, huyện: 116).

+ Số khoa, phòng được xây mới, mở rộng, cải tạo: 1.839 khoa (Tuyến Trung ương: 172; tỉnh, huyện: 1.667).

+ Số buồng, bàn khám tăng thêm: 5.129 bàn khám (Tuyến Trung ương 188; tỉnh 2.858; huyện 2.083).

+ Tăng tỷ lệ giường bệnh (GB) thực kê/ vạn dân:

Năm 2014: Đạt 28,1 GB/ vạn dân năm 2014 so với 24,7 giường bệnh/ vạn dân năm 2012 (trước khi thực hiện Đề án). Tuy nhiên, số giường bệnh theo kế hoạch hiện mới đạt 24,1 giường bệnh / vạn dân, tương ứng với tổng số 223.438 giường bệnh.

Năm 2015: Đạt 31.4 GB/ vạn dân (cụ thể bao gồm: 285.821 giường bệnh thực kê trong đó:

Tuyến Trung ương:                 27.551 giường bệnh

Tuyến Tỉnh/ thành phố:                     144.103 giường bệnh

Tuyến Huyện:                         94.495 giường bệnh

Thuộc Bộ, Ngành:                               6.016 giường bệnh

Bệnh viện ngoài công lập: 13.656 giường bệnh

Tính riêng các Bệnh viện tuyến trung ương, đã tập trung vốn cho 15 dự án trọng điểm là các công trình khám chữa bệnh hiện đại, trang thiết bị tiên tiến. Sau giai đoạn 1 của Đề án, các công trình đã cơ bản hoàn thành và đưa vào sử dụng như: Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Nội tiết Trung ương, Trung tâm Ung bướu Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Lão khoa, Bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí, Bệnh viện Thống Nhất, Trung tâm Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Da Liễu Trung ương, Khu điều trị của Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Tòa nhà 15 tầng Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên,… Các cơ sở đang hoàn thiện và chuẩn bị đưa vào sử dụng gồm có: Cơ sở 2 của Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức tại Hà Nam, Bệnh viện Nhi đồng Thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình Thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh (cơ sở 2);…

Đánh giá kết quả giảm tải ở khu vực nội trú và ngoại trú:

(1) Giảm quá tải khu vực ngoại trú: Tình trạng quá tải khu vực khám bệnh đã được cải thiện đáng kể. Quy trình khám bệnh giảm từ 12-14 bước xuống còn 4 – 8 bước tùy theo loại hình khám bệnh; giảm trung bình 48,5 phút trên 1 lượt khám bệnh, tiết kiệm được trung bình 27,2 triệu ngày công lao động/ năm cho xã hội.

(2) Giảm quá tải khu vực nội trú: Tình trạng quá tải khu vực điều trị nội trú đang từng bước được khống chế. So với năm 2012, 58% trong tổng số bệnh viện tuyến Trung ương trước đây có tình trạng nằm ghép, hiện đã và đang có xu hướng giảm số khoa có tình trạng nằm ghép trong bệnh viện; 47% trong tổng bệnh viện tuyến tỉnh trước đây có tình trạng nằm ghép hiện đã và đang có xu hướng giảm tỷ lệ số khoa có nằm ghép trong bệnh viện. Đặc biệt có tới 90 % (35/39 bệnh viện) số bệnh viện tuyến Trung ương đã ký cam kết không để người bệnh nằm ghép giường bệnh trong bệnh viện; tại thành phố Hồ Chí Minh có tới 29/31 bệnh viện tuyến cuối cam kết không để người bệnh nằm ghép trong bệnh viện. Tại Tuyến Trung ương có tới 80% số bệnh viện khảng định cũng như qua theo dõi, giám sát không còn tình trạng người bệnh nằm ghép.

Trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tiếp tục triển khai các giải pháp nhằm giảm quá tải Bệnh viện và sẽ tiếp tục thu được những kết quả quan trọng trong việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, đáp ứng sự hài lòng của người dân

114. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị: Hiện nay, tình trạng quá tải của các bệnh viện tuyến trên là phổ biến, đề nghị có chính sách khuyến khích phát triển các bệnh viện vệ tinh của bệnh viện tuyến trên về các khu vực nhằm đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh với chất lượng cao của nhân dân và giảm tải cho bệnh viện tuyến trên (Thái Bình).

Trả lời:

Bộ Y tế đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 11/3/2016 của Thủ tướng về tăng cường các giải pháp giảm quá tải bệnh viện và mở rộng bệnh viện vệ tinh. Thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng, toàn ngành Y tế tiếp tục tích cực triển khai đồng bộ và quyết liệt các giải pháp giảm quá tải bệnh viện tuyến trên, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, cụ thể tập trung vào một số giải pháp:

- Tăng cường công tác chỉ đạo tuyến: Các đơn vị, địa phương tiếp tục tăng cường công tác chỉ đạo tuyến, chuyển giao gói kỹ thuật, thực hiện nghĩa vụ luân phiên. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng hệ thống hỗ trợ y tế từ xa (telemedicine) trong việc hội chẩn, hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật, tư vấn, hội thảo, đào tạo giữa các bệnh viện. Các bệnh viện tuyến dưới đã tiếp nhận và thực hiện thành công nhiều kỹ thuật mới, kỹ thuật cao được chuyển giao, góp phần nâng cao trình độ, hầu hết các bệnh viện vệ tinh đã giảm được tỷ lệ chuyển tuyến trên đối với các chuyên khoa được tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật từ bệnh viện hạt nhân.

- Mở rộng mạng lưới bệnh viện vệ tinh: Mạng lưới bệnh viện vệ tinh được mở rộng đến tất cả 63 tỉnh/thành phố trong cả nước với 22 bệnh viện hạt nhân và 98 bệnh viện vệ tinh, đã tổ chức 386 lớp đào tạo, chuyển giao cho 7.051 cán bộ được 791 kỹ thuật từ hạt nhân cho bệnh viện vệ tinh, làm tỷ lệ chuyển tuyến giảm từ 73-99% theo các chuyên khoa, như: Tim mạch: giảm tới 98,5%; Ung thư: giảm tới 97%; Ngoại khoa: giảm tới 98,5%; Sản khoa: giảm tới 99%; Nhi khoa: giảm tới 73% so với trước khi triển khai mô hình bệnh viện vệ tinh.

Trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tiếp tục chỉ đạo các Bệnh viện tuyến Trung ương, các bệnh viện tuyến cuối của thành phố Hồ Chí Minh thực hiện Đề án Bệnh viện Vệ tinh với vai trò là Bệnh viện hạt nhân của Đề án, nhằm tăng cường hỗ trợ kỹ thuật hơn nữa cho các bệnh viện tuyến dưới.

115. Cử tri tỉnh An Giang, Gia Lai, Hà Nội, Vĩnh Long, An Giang, Bà Rịa – Vũng Tàu kiến nghị: Cử tri đề nghị đơn giản hóa thủ tục chuyển viện và khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế và có chính sách cho thông tuyến khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế trên toàn quốc (An Giang, Gia Lai, Hà Nội, Vĩnh Long, An Giang);

Cử tri đề nghị cần đơn giản hóa thủ tục trong việc tái khám, chữa bệnh vượt tuyến của người có thẻ bảo hiểm y tế, vì theo quy định hiện hành thị khi phải tái khám, chữa bệnh ở tuyến trên lại phải làm thủ tục chuyển tuyến đã gây phiền hà cho người có thẻ bảo hiểm y tế (An Giang, Bà Rịa – Vũng Tàu).

Trả lời:

Đơn giản hóa thủ tục chuyển viện là một trong các nội dung trong đơn giản hóa thủ tục hành chính trong khám chữa bệnh (KCB) bảo hiểm y tế (BHYT) đã được Bộ Y tế chỉ đạo các cơ sở KCB thực hiện từ nhiều năm nay; Tùy thuộc vào tình trạng bệnh và khả năng đáp ứng của cơ sở KCB, người bệnh sẽ được chuyển viện đến cơ sở KCB phù hợp nếu cơ sở KCB đang điều trị cho bệnh nhân không đáp ứng được.

Thủ tục chuyển viện hiện nay đã được đơn giản hóa rất nhiều. Trước đây khi chuyển đi các cơ sở KCB khác thì ngoài hồ sơ bệnh án, còn cần phải có giấy chuyển viện của các cơ sở KCB mà người bệnh đã điều trị trước đó, hiện nay, chỉ cần giấy chuyển viện của cơ sở trực tiếp chuyển người bệnh đi.

Bên cạnh đó, theo quy định của Thông tư số 40/2015/TT-BYT ngày 16/11/2015 quy định đăng ký khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu và chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế, hiện nay có 62 loại bệnh, nhóm bệnh trong danh mục bệnh cần điều trị dài ngày chỉ cần giấy chuyển viện 1 lần mà được sử dụng 1 năm.

Bộ Y tế đang tiếp tục nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin để ngày càng đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, trong đó có thủ tục chuyển viện.

Về kiến nghị thông tuyến khám chữa bệnh: theo quy định của Luật BHYT, từ ngày 01/01/2016 thực hiện thông tuyến huyện và từ ngày 01/01/2021 thực hiện thông tuyến tỉnh trên toàn quốc. Bộ Y tế sẽ tổng kết, đánh giá toàn diện hiệu quả của việc thông tuyến khám chữa bệnh trước khi báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định việc thực hiện thông tuyến sớm hơn so với quy định của Luật BHYT.

116. Cử tri tỉnh An Giang, Bình Dương, Đà Nẵng, Đắk Nông, Đồng Tháp, Hà Nam, Quảng Ngãi, Vĩnh Long, thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đánh giá cao ngành y tế đã có nhiều cố gắng trong việc nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh. Tuy nhiên, cử tri cho rằng việc điều chỉnh giá dịch vụ y tế chưa phù hợp với chất lượng dịch vụ y tế hiện nay; việc tổ chức khám, chữa bệnh ở một số bệnh viện còn chưa thật hợp lý, một bộ phận y bác sỹ có thái độ không đúng chuẩn mực khi người dân khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế. Cử tri đề nghị Bộ Y tế tiếp tục triển khai mạnh mẽ các giải pháp đổi mới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; khắc phục kịp thời tình trạng trên để đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe của người dân; đồng thời cần tăng cường thanh tra, giám sát mạnh mẽ hơn nữa việc thu chi quỹ và khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế tại các bệnh viện (An Giang, Bình Dương, Đà Nẵng, Đắk Nông, Đồng Tháp, Hà Nam, Quảng Ngãi, Vĩnh Long); và

Cử tri ghi nhận sự cố gắng trong thời gian qua của ngành y tế trong việc thưc hiện các giải pháp giảm quá tải bệnh viện, đưa vào sử dụng nhiều cơ sở y tế hiện đại, ứng dụng kỹ thuật mới, phong cách phục vụ hướng tới sự hài lòng của người bệnh. Tuy nhiên, cử tri và nhân dân băn khoăn trước việc điều chỉnh giá dịch vụ y tế kể từ ngày 1/3/2016. Kiến nghị Bộ Y tế tiếp tục triển khai các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh đảm bảo các quyền lợi chính đáng của người dân; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong lĩnh vực y tế (TP Hồ Chí Minh).

Trả lời:

1. Về nâng cao chất lượng khám chữa bệnh

Trong thời gian tới, để tiếp tục thực hiện giảm quá tải bệnh viện, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, Bộ Y tế sẽ tiếp tục tập trung thực hiện một số nhiệm vụ ưu tiên sau:

Thứ nhất: Đổi mới quan điểm, tư duy của nhân viên y tế về người bệnh, quản lý chất lượng dịch vụ y tế.

   Lãnh đạo, nhân viên y tế cần đổi mới quan điểm, tư duy về người bệnh và quản lý chất lượng, lấy "người bệnh làm trung tâm của hoạt động chăm sóc và điều trị", an toàn của người bệnh là số 1, quản lý và cải tiến chất lượng là nhiệm vụ mang tính "sống còn". Lãnh đạo Bệnh viện cần phải thay đổi quan điểm cho rằng phải có kinh phí mới tiến hành cải tiến chất lượng được. Xác định những việc đòi hỏi ít kinh phí vẫn nâng cao được chất lượng để cải tiến.

Thứ hai: Tích cực triển khai các chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Y tế về cải tiến chất lượng khám, chữa bệnh.

Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành         Chỉ thị số 05/CT-BYT ngày 10/9/2012 về việc tăng cường thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh sau khi điều chỉnh giá dịch vụ y tế, và Chỉ thị số 06/CT-BYT ngày 29/3/2016 về việc tăng cường bảo đảm chất lượng dịch vụ KCB khi thực hiện điều chỉnh, thống nhất giá dịch vụ KCB BHYT giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc, trong đó nhấn mạnh các giải pháp: Cải tiến quy trình khám bệnh, xét nghiệm, thăm dò chức năng; cải tiến thủ tục vào viện, chuyển viện, ra viện, thanh toán viện phí, bảo hiểm y tế; ứng dụng phát số khám bệnh tự động, bảng số điện tử; Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, phần mềm kê đơn thuốc điện tử, phần mềm tương tác thuốc; Nâng cao tinh thần, thái độ phục vụ người bệnh, thực hiện tốt Quy tắc ứng xử của cán bộ, viên chức đồng thời sửa chữa, cải tạo, mở rộng khoa khám bệnh và các buồng bệnh, mua bổ sung, thay thế bàn, ghế, giường, tủ, dụng cụ khám bệnh, điều hòa nhiệt độ, quạt điện, chăn, ga, gối, đệm, quần áo người bệnh v.v... tại khu vực khám bệnh và các buồng bệnh. Thực hiện tốt cam kết không nằm ghép sau giờ quy định.

Thứ Ba: Thực hiện nghiêm các văn bản, công cụ quản lý chất lượng đã ban hành gần đây thông qua việc:

- Triển khai Thông tư số 19/2013/TT-BYT ngày 12/7/2013 hướng dẫn quản lý chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh tại bệnh viện: khẩn trương, nghiêm túc thiết lập bộ máy, thành lập phòng/tổ quản lý chất lượng, nhân viên chuyên trách, mạng lưới chất lượng. Các nhân viên quản lý chất lượng cần xác định nhiệm vụ và là đầu mối hướng dẫn bệnh viện quản lý chất lượng.

- Thực hiện Thông tư số 01/2013/TT-BYT ngày 11/01/2013 hướng dẫn quản lý chất lượng xét nghiệm tại cơ sở khám chữa bệnh: tiến hành nội kiểm, ngoại kiểm thường xuyên và cải tiến nâng cao chất lượng xét nghiệm.

- Áp dụng Quyết định số 1313/QĐ-BYT ngày 22/4/2013 hướng dẫn quy trình khám bệnh tại bệnh viện: nghiên cứu áp dụng quy trình khám bệnh thuận tiện nhất, giảm phiền hà, giảm yêu cầu thủ tục với người bệnh có thẻ BHYT.

- Áp dụng Quyết định số 4858/QĐ-BYT ngày 03/12/2013 ban hành thí điểm Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện: Các bệnh viện dựa trên 83 tiêu chí để xác định những vấn đề tồn tại và ưu tiên để xây dựng các đề án cải tiến chất lượng cho từng bộ phận như khám bệnh, kế toán, dược, kiểm soát nhiễm khuẩn, điều dưỡng, dinh dưỡng, các khoa lâm sàng, cận lâm sàng... Các bệnh viện cần nỗ lực đẩy mạnh cải tiến chất lượng toàn diện hơn trên đầy đủ các khía cạnh từ chất lượng nhân lực, chuyên môn đến cơ sở vật chất, phương tiện, tinh thần thái độ phục vụ người bệnh. Bộ Y tế sẽ công bố chất lượng hạng 1 trở lên, tiến tới công bố chất lượng của toàn bộ các bệnh viện trên toàn quốc, bệnh viện có chất lượng tiêu biểu công khai, minh bạch để người dân có thêm thông tin lựa chọn cơ sở khám chữa bệnh sau khi các bệnh viện được khám thông tuyến BHYT.

- Triển khai Quyết định số 4276/QĐ-BYT ngày 14/10/2015Chương trình hành động Quốc gia về nâng cao năng lực quản lý chất lượngkhám chữa bệnh giai đoạn đến năm 2025, các Sở Y tế, bệnh viện và ban ngành cùng vào cuộc để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Các đơn vị cần xây dựng kế hoạch nâng cao chất lượng riêng của mình cho phù hợp với thực tế và triển khai tích cực.

Thứ Tư: Tích cực nâng cao chất lượng lâm sàng và triển khai các hướng dẫn kỹ thuật

Trong các năm gần đây, Bộ Y tế đã ban hành 5124 hướng dẫn quy trình kỹ thuật của 28 chuyên khoa và xây dựng 13 cuốn hướng dẫn chẩn đoán và điều trị. Các bệnh viện cần tích cực nâng cao chất lượng lâm sàng thông qua việc áp dụng, cập nhật, triển khai các hướng dẫn kỹ thuật và thông tư chuyên môn như Thông tư số 07/2015/TT-BYT áp dụng kỹ thuật mới, phương pháp mới trong khám chữa bệnh, Thông tư 43/2013/TT-BYT quy định chi tiết phân tuyến chuyên môn kỹ thuật và nhiều thông tư, văn bản khác như bệnh viện vệ tinh, công tác luân phiên cán bộ hỗ trợ tuyến dưới, tích cực chỉ đạo tuyến...

Thứ Năm: Xử lý kịp thời thông tin phản hồi của người dân

Các Bệnh viện nghiêm túc xử lý kịp thời các thông tin phản hồi của người dân thông qua các kênh thông tin báo chí, hòm thư góp ý, đường dây nóng và kể cả các trang mạng xã hội, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 09/CT-BYT về đường dây nóng.

Bộ Y tế cảm ơn sự quan tâm của Đại biểu Quốc hội và cử tri. Bộ Y tế trân trọng đề nghị cử tri kiến nghị tới Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các ban ngành tiếp tục đầu tư các nguồn lực và ủng hộ mạnh mẽ ngành Y tế tiến hành cải tiến chất lượng, đồng thời điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo đúng lộ trình, giúp bệnh viện có thêm nguồn kinh phí tiến hành cải tiến chất lượng.

2. Về nâng cao y đức

Không chỉ hiện nay, mà ngay từ những năm 1970, tinh thần thái độ phục vụ người bệnh đã trở thành vấn đề luôn được quan tâm của ngành Y tế. Bộ Y tế đã ban hành nhiều Chỉ thị về chấn chỉnh công tác bệnh viện, về việc chấn chỉnh tinh thần, thái độ phục vụ trong các cơ sở phòng bệnh, chữa bệnh như:

+ Chỉ thị số 06/BYT-CT ngày 15/3/1974 về việc chấn chỉnh công tác bệnh viện;

+ Chỉ thị số 10/BYT-CT ngày 27/11/1975.

Chỉ đạo của ngành Y tế càng quyết liệt hơn trong những năm 1990 với một loạt các quy định như:

+ Quyết định số 2088/BYT-QĐ ngày 6/11/1996 ban hành qui định về y đức;

+ Quyết định số 2526/QĐ-BYT ngày 21/8/1999 ban hành tiêu chuẩn cụ thể phấn đấu về y đức;

+ Chỉ thị số 09/2001/CT-BYT ngày 8/8/2001 về tăng cường y đức nâng cao tinh thần thái độ phục vụ và chất lượng chăm sóc người bệnh tại các cơ sở y tế;

+ Quyết định số 4031/2001/QĐ-BYT về việc ban hành “Quy định về chế độ giao tiếp trong các cơ sở khám, chữa bệnh”.

+ Gần đây nhất, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Chỉ thị số 09/CTBYT ngày 22/11/2013 về việc tăng cường tiếp nhận và xử lý ý kiến phản ánh của người dân về chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh thông qua đường dây nóng;

+ Thông tư số 07/2014/TT-BYT ngày 25 tháng 02 năm 2014 quy định về quy tắc ứng xử của công chức, viên chức, người lao động làm việc tại các cơ sở y tế;

+ Thông tư số 25/2015/TT-BYTngày 01 tháng 10 năm 2015 quy định về hòm thư góp ý tại các cơ sở y tế.

Đặc biệt năm 2015, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Kế hoạch thực hiện “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế, hướng tới sự hài lòng của người bệnh” (Ban hành kèm theo Quyết định số 2151/QĐ-BYT ngày 04/6/2015). Kế hoạch tập trung vào 06 giải pháp trước mắt như:

a. Tăng cường tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, nhân viên y tế về Y đức, tầm quan trọng của công tác giao tiếp ứng xử và tăng cường kỹ năng giao tiếp ứng xử của cán bộ, nhân viên y tế.

b. Đẩy mạnh giáo dục kỹ năng giao tiếp ứng xử của cán bộ nhân viên y tế đối với người bệnh, người nhà người bệnh.

c. Chú trọng công tác kiểm tra giám sát tại chỗ bao gồm cả công tác tự kiểm tra giám sát của mỗi cơ sở.

d. Tăng cường kiểm tra, xử lý giám sát việc thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ y tế và thường xuyên tổ chức thu thập ý kiến phản ánh của người bệnh thông qua đường dây nóng 1900-9095 của Bộ Y tế, hộp thư góp ý của người bệnh. Bộ Y tế thường xuyên tiến hành kiểm tra, chỉ đạo các Sở Y tế, Bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế triển khai thực hiện chủ trương đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh.

e. Xây dựng quy chế khen thưởng để kịp thời động viên khuyến khích, vinh danh những tấm gương tốt về giao tiếp ứng xử của cán bộ nhân viên y tế đối với người bệnh, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Hiện nay toàn ngành Y tế đang tích cực triển khai kế hoạch này và bước đầu đã thu được một số kết quả. Qua đánh giá độc lập của Viện Chiến lược và Chính sách y tế, chỉ số hài lòng của bệnh nhân đối với dịch vụ khám chữa bệnh được nâng lên. Tuy nhiên, tại các bệnh viện vẫn còn một số ít cán bộ y tế có tinh thần và thái độ phục vụ người bệnh chưa tốt, người bệnh chưa hài lòng, đôi khi gây bức xúc cho người bệnh, làm ảnh hưởng đến hình ảnh người thầy thuốc. Để khắc phục tình trạng nêu trên, thời gian tới Bộ Y tế tiếp tục tập trung triển khai các nội dung sau:

a. Triển khai toàn bộ các nội dung trong Kế hoạch được phê duyệt kèm theo Quyết định số 2151/QĐ-BYT ngày 04/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế; đặc biệt quan tâm đến công tác hướng dẫn, tổ chức tập huấn kỹ năng giao tiếp ứng xử cho 100% cán bộ y tế, trong đó có cả cán bộ bảo vệ, hành chính, thu ngân…

b. Tăng cường kiểm tra theo kế hoạch và kiểm tra đột xuất các địa phương, đơn vị về nội dung đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế.

c. Khen thưởng, biểu dương, nêu gương kịp thời những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc triển khai Quyết định số 2151/QĐ-BYT; xử lý nghiêm minh các tập thể, cá nhân vi phạm trong quá trình kiểm tra phát hiện hoặc được người dân, báo chí phản ánh (sau khi đã thẩm định, kiểm tra là đúng có vi phạm).

 d. Tiếp tục xây dựng cơ sở y tế “Xanh - Sạch - Đẹp” hướng tới sự hài lòng của người bệnh theo bộ Tiêu chí chấm điểm mới.

e. Tiếp tục tăng cường đầu tư hạ tầng cơ sở, vật chất, trang thiết bị y tế; đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, cải tiến lề lối, tác phong làm việc, quy trình khám bệnh, chữa bệnh cho phù hợp, giảm thời gian chờ đợi của người bệnh, đặc biệt khu phòng khám, xét nghiệm…

3. Về việc quản lý Quỹ Bảo hiểm y tế

Theo quy định của Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế, các hành vi vi phạm liên quan đến bảo hiểm y tế đều bị xử phạt hành chính, với các mức phạt khá cao. Đồng thời để chấn chỉnh các hành vi lạm dụng thẻ bảo hiểm y tế, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ra Chỉ thị số 06/CT-BYT ngày 13/6/2014 về việcTăng cường công tác thanh tra, kiểm tra phòng chống hành vi gian lận, trục lợi quỹ bảo hiểm y tế tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam tổ chức nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách pháp luật về bảo hiểm y tế (BHYT), đã kịp thời chấn chỉnh các trường hợp lạm dụng và đã chuyển cơ quan pháp luật khởi tố đối với một số trường hợp sử dụng thẻ BHYT của người khác lấy thuốc để bán.

Để hạn chế tình trạng lạm dụng, trục lợi Quỹ BHYT, Bộ Y tế đã phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam xây dựng hệ thống Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý khám chữa bệnh và thanh toán BHYT chi phí khám chữa bệnh BHYT, hệ thống này sẽ phát hiện những cơ sở khám chữa bệnh, người bệnh BHYT có tần suất khám bệnh, chữa bệnh cao; sử dụng thuốc, dịch vụ kỹ thuật y tế không phù hợp, không đúng với bệnh tật, để từ đó kịp thời xử lý các trường hợp lạm dụng thẻ BHYT để lấy thuốc không đúng quy định.

117. Cử tri tỉnh An Giang, Đắk Lắk. Vĩnh Long, Long An kiến nghị: Cử tri cho rằng, tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ bệnh nhân của đội ngũ y bác sĩ ở các bệnh viện vẫn chưa tốt, đã làm ảnh hưởng đến hình ảnh người thầy thuốc và trong công tác vận động nhân dân tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện.

Đề nghị ngành Y tế tăng cường hơn nữa việc kiểm tra, chấn chỉnh về y đức và quan tâm việc nâng cao tay nghề cho đội ngũ y, bác sĩ (An Giang, Đắk Lắk. Vĩnh Long, Long An).

Trả lời:

1. Về vấn đề y đức

(Xin tham khảo nội dung trả lời câu hỏi số 10)

2. Về nâng cao tay nghề cho đội ngũ y, bác sĩ

Để nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh phục vụ nhân dân ở tuyến cơ sở, trong thời gian qua Bộ Y tế đã chú trọng, triển khai nhiều giải pháp để tăng cường đào tạo, đào tạo lại cho nguồn nhân lực phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, cụ thể:

a. Đào tạo nhân lực tại chỗ: Đối với các tỉnh còn khó khăn về nhân lực, đề nghị tiếp tục tăng cường công tác đào tạo cán bộ y-dược dưới nhiều loại hình đào tạo (chính quy, cử tuyển, liên thông, đào tạo theo địa chỉ) với quy mô hợp lý cho đối tượng là người địa phương, sau khi tốt nghiệp trở về công tác tại địa phương nhằm giúp các tỉnh tháo gỡ khó khăn về nhân lực. Giảm dần quy mô đào tạo cử tuyển khi đã có đủ cán bộ.

b. Đào tạo liên tục: Cán bộ y tế cơ sở đã được đào tạo, đào tạo lại, cập nhật kiến thức mới thông qua thông qua việc thực hiện hiệu quả các Đề án: Đề án Bệnh viện vệ tinh (Quyết định số 774/QĐ-BYT ngày 11/03/2013 ban hành Đề án bệnh viện vệ tinh giai đoạn 2013 – 2020); Đề án 1816 (ban hành kèm theo Quyết định số 1816/QĐ-BYT ngày 26/5/2008 về việc phê duyệt đề án “Cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh” và Quyết định số 5068/QĐ-BYT ngày 21/12/2012 về việc quy định một số nội dung triển khai thực hiện, đào tạo chuyển giao kỹ thuật theo gói dịch vụ y tế theo Đề án 1816 từ năm 2013; Quyết định số 14/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ luân phiên có thời hạn của người hành nghề tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

c. Thực hiện Dự án thí điểm đưa bác sỹ trẻ tình nguyện về công tác vùng khó khăn, 62 huyện nghèo: Để có nguồn nhân lực y tế chất lượng phục vụ công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân được tốt, tiến tới mọi người dân được bình đẳng trong việc thụ hưởng dịch vụ y tế chất lượng, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 585/QĐ-BYT phê duyệt Dự án “Thí điểm đưa bác sĩ trẻ tình nguyện về công tác tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (ưu tiên 62 huyện nghèo)” nhằm thu hút bác sỹ trẻ mới ra trường tình nguyện về công tác tại các vùng khó khăn.

118. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri phản ánh, người dân mua bảo hiểm y tế chỉ được khám, chữa bệnh ở bệnh viện tuyến huyện, nhưng bệnh viện tuyến huyện cũng quá tải, khám bệnh phải chờ quá lâu, đề nghị xem xét tạo điều kiện cho người dân khi mua bảo hiểm y tế được khám ở nhiều nơi trong cùng một địa phương (An Giang).

Trả lời:

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 22 sửa đổi bổ sung Luật Bảo hiểm y tế: Từ ngày 01/01/2016 mở thông tuyến khám chữa bệnh bảo hiểm y tế trong cùng địa bàn tỉnh, theo đó người tham gia bảo hiểm y tế đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện được quyền khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh có mức hưởng theo đúng quy định của Luật mà không bị coi là trái tuyến.

Như vậy việc thông tuyến huyện được hiểu là người có thẻ bảo hiểm y tế được khám chữa bệnh tại bất kỳ bệnh viện tuyến huyện nào trong toàn quốc, người tham gia bảo hiểm y tế đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện được quyền khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh; Đối với các bệnh viện tuyến tỉnh, theo quy định của Luật BHYT thì thực hiện thông tuyến từ 01/01/2021.

119. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri cho rằng, theo luật định người tham gia bảo hiểm y tế từ 5 năm trở lên sẽ được ưu tiên một số vấn đề trong khám, chữa bệnh, nhưng thực tế chưa thực hiện và vẫn còn sự phân biệt đối xử trong khám, chữa bệnh giữa người có bảo hiểm y tế với người khám dịch vụ. Đề nghị ngành y tế thực hiện theo luật định (An Giang).

Trả lời:

Theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 22 Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) và Điểm e Khoản 1 Điều 22 Thông tư liên tịch số 412014/TTLT-BYT-BTC ngày 24/11/2014 của liên Bộ Y tế - Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện BHYT thì trường hợp người tham gia BHYT từ 05 năm liên tục trở lên và có số tiền cùng chi trả trong khám bệnh, chữa bệnh BHYT lớn hơn 6 tháng lương cơ sở (Mức lương cơ sở hiện nay thì 6 tháng lương cơ sở bằng 7,2 triệu đồng) thì sẽ không phải cùng chi trả trong đợt khám bệnh, chữa bệnh đó và được Cơ quan bảo hiểm xã hội cấp giấy xác nhận để các lần khám, chữa bệnh tiếp theo trong năm người bệnh không phải cùng chi trả. Vấn đề này đã được thực hiện tại các cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế trên toàn quốc từ ngày 01/01/2015 theo quy định của Luật BHYT.

Đối với phản ánh của cử tri về sự phân biệt, đối xử giữa những người khám chữa bệnh bảo hiểm y tế và người khám chữa bệnh dịch vụ, Bộ Y tế xin khẳng định về chuyên môn không có quy định nào về sự phân biệt, đối xử giữa những người khám chữa bệnh theo 02 nhóm đối tượng này. Tuy nhiên vẫn có sự khác nhau về thủ tục khi đi khám chữa bệnh, đó là: người có thẻ BHYT sẽ phải trình thẻ BHYT kèm theo Giấy tờ xác định nhân thân, Giấy chuyển viện (trong trường hợp chuyển tuyến) còn đối với người không có thẻ BHYT sẽ làm thủ tục nộp tiền theo quy định.

Bộ Y tế đã và đang tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh BHYT, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia và hưởng đầy đủ quyền lợi BHYT. Cụ thể là tiếp tục tập trung vào giảm tải bệnh viện, ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh, đổi mới cơ chế tài chính, thanh toán chi phí đối với hầu hết các dịch vụ kỹ thuật cao, có chi phí lớn…..nhằm đáp ứng sự hài lòng của người bệnh, không có phân biệt đối xử trong khám bệnh, chữa bệnh giữa người có và người không có thẻ bảo hiểm y tế.

120. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Hiện nay, người khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế không được điều trị tốt như khám chữa bệnh dịch vụ, đề nghị ngành y tế xem xét, điều chỉnh để việc khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế vẫn hưởng đủ các chế độ như khám, chữa bệnh dịch vụ (An Giang).

Câu 23. Cử tri phản ánh, Chính phủ đề ra chỉ tiêu hơn 90% dân số tham gia bảo hiêm y tế vào năm 2020 thì cần phải đổi mới công tác khám, chữa bệnh và chú trọng chất lượng khám, chữa bệnh thì mới khuyến khích được người dân tích cực tham gia (Tây Ninh).

Trả lời:

1. Về ý kiến người khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế không được điều trị tốt như khám chữa bệnh dịch vụ

Đối với phản ánh của cử tri về sự phân biệt, đối xử giữa những người khám chữa bệnh bảo hiểm y tế và người khám chữa bệnh dịch vụ, Bộ Y tế xin khẳng định không có sự phân biệt, đối xử giữa những người khám chữa bệnh theo 02 nhóm đối tượng này. Tuy nhiên vẫn có sự khác nhau về thủ tục khi đi khám chữa bệnh, đó là: người có thẻ BHYT sẽ phải trình thẻ BHYT kèm theo Giấy tờ xác định nhân thân, Giấy chuyển viện (trong trường hợp chuyển tuyến) còn đối với người không có thẻ BHYT sẽ làm thủ tục nộp tiền theo quy định.

Bộ Y tế đã và đang triển khai đồng bộ các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng khám bệnh chữa bệnh, tăng tiếp cận dịch vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn sự hài lòng của người bệnh có thẻ BHYT, khuyến khích các cơ sở y tế tổ chức khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế vào ngày nghỉ, ngày lễ; mở rộng danh mục thuốc và đưa các thiết bị kỹ thuật cao vào khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế;… nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của người bệnh có thẻ BHYT:

a. Ban hành một số văn bản

- Ban hành Thông tư số 43/2015/TT-BYT ngày 26/11/2015 quy định về nhiệm vụ và hình thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác xã hội của bệnh viện để hỗ trợ, tư vấn giải quyết các vấn đề về công tác xã hội cho người bệnh và người nhà người bệnh trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh.

- Phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 16/2015/TTLT-BYT-BTC Sửa đổi Khoản 5 Điều 13 Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 24/11/2014 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính thì trường hợp cơ sở y tế có tổ chức khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế vào ngày nghỉ, ngày lễ phải thông báo cho tổ chức bảo hiểm xã hội để bổ sung vào hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh trước khi thực hiện. Người có thẻ bảo hiểm y tế đến khám bệnh, chữa bệnh được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán trong phạm vi quyền lợi và mức hưởng bảo hiểm y tế. Cơ sở y tế có trách nhiệm bảo đảm về nhân lực, điều kiện chuyên môn, phải công khai những khoản chi phí mà người bệnh phải chi trả ngoài phạm vi được hưởng của người bệnh tham gia bảo hiểm y tế và phải thông báo trước cho người bệnh, người bệnh phải tự chi trả phần chi phí ngoài phạm vi quyền lợi và mức hưởng bảo hiểm y tế (nếu có). Như vậy cơ sở KCB đã được tạo điều kiên tối đa để tổ chức khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế vào ngày cuối tuần.

Hiện nay, nhiều cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã tổ chức khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế vào ngày nghỉ, ngày lễ nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh và bảo đảm quyền lợi của người tham gia BHYT như: Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Nhân dân Gia Định, Bệnh viện cấp cứu Trưng Vương, Bệnh viện Chỉnh hình và phục hồi chức năng TP.HCM…

- Ban hành Thông tư số 40/2014/TT-BYT ban hành và hướng dẫn thực hiện danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế và Thông tư số 05/2015/TT-BYT ngày 17/3/2015 ban hành và hướng dẫn danh mục thuốc động y, thuốc từ dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT.

Danh mục thuốc tân dược gồm 845 hoạt chất, 1064 thuốc với đầy đủ các chuyên khoa.Việt Nam được đánh giá là một trong số ít các nước trên thế giới có danh mục thuốc tương đối đầy đủ, toàn diện và mở rộng so với mức phí đóng BHYT. Bộ Y tế có thể khẳng định Thông tư số 40/2014/TT-BYT ban hành đã đáp ứng được nhu cầu điều trị, bảo đảm được quyền lợi cho người bệnh có thẻ BHYT, đồng thời phù hợp với khả năng chi trả của quỹ BHYT.

Danh mục thuốc y học cổ truyềnhiện có 229 chế phẩm - tăng 102 chế phẩm, và 349 vị thuốc - tăng 49 vị thuốc so với Thông tư số 12/2010/TT-BYT ngày 29/4/2010, được áp dụng cho tất cả các cơ sở KCB, bao gồm bệnh viện YHCT, bệnh viện có khoa YHCT, kể cả trạm y tế xã có đủ điều kiện KCB BHYT theo quy định.

Danh mục thuốc BHYT ban hành trong các Thông tư số 40/2014/TT-BYT và Thông tư số 05/2015/TT-BYT được ghi dưới dạng tên hoạt chất/thành phần, không ghi hàm lượng,dạng bào chế và tên thương mại. Như vậy, việc lựa chọn thuốc thành phẩm được Quỹ BHYT thanh toán tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không bị giới hạn bởi chủng loại thuốc với giá rẻ hay đắt, thuốc nội hay thuốc ngoại. Căn cứ vào mô hình bệnh tật, nhu cầu khám chữa bệnh và khả năng chi trả của Quỹ BHYT, cơ sở khám chữa bệnh xây dựng danh mục thuốc sử dụng tại đơn vị để mua sắm lựa chọn thuốc thành phẩm phù hợp.

- Ban hành Quyết định số 1313/QĐ-BYT ngày 22/4/2013 hướng dẫn quy trình khám bệnh tại bệnh viện với mục đích nhằm: (1) Thống nhất quy trình khám bệnh của các bệnh viện; (2) Hướng dẫn các bệnh viện thực hiện các giải pháp cải tiến quy trình và thủ tục trong khám bệnh, rút ngắn thời gian chờ, tránh gây phiền hà và tăng sự hài lòng của người bệnh, đặc biệt đối với người bệnh bảo hiểm y tế khi đến khám tại bệnh viện; (3) Giúp người bệnh biết rõ quy trình khám bệnh để cùng phối hợp với bệnh viện trong quá trình khám bệnh. Đến nay, thì 100% các cơ sở khám chữa bệnh đã tổ chức triển khai thực hiện cải tiến quy trình khám bệnh, thời gian khám bệnh trung bình giảm rõ rệt.

- Ban hành Quyết định 2151/QĐ-BYT ngày 04/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh”, tổ chức triển khai rộng rãi tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

- Ban hành Bộ Tiêu chí đánh giá về chất lượng bệnh viện và thực hiện cải cách thủ tục hành chính, cải tiến quy trình khám chữa bệnh, theo phương châm: Rút ngắn thời gian chờ đợi; Giảm bớt các thủ tục không cần thiết; Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh; Tạo sự hài lòng cho người bệnh. Bước đầu giải quyết tình trạng quá tải bệnh viện, đáp ứng yêu cầu của người bệnh góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh BHYT, bảo đảm quyền lợi của người tham gia BHYT.

b. Triển khai các hoạt động chỉ đạo, điều hành

- Chỉ đạo các cơ sở khám chữa bệnh thực hiện các hoạt động nhằm cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho người bệnh, giảm thời gian chờ đợi khám bệnh, cụ thể như sau:

+ Tổ chức quán triệt, triển khai các văn bản hướng dẫn về bảo hiểm y tế cho toàn thể cán bộ nhân viên của đơn vị.

+ Thủ trưởng các đơn vị tổ chức rà soát thủ tục khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, bố trí hệ thống đăng ký và nơi khám bệnh một cách khoa học, hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị.

+ Cải tiến quy trình, thủ tục hành chính, bổ sung bảng chỉ dẫn các khoa phòng, bảng hướng dẫn thủ tục khám, chữa bệnh, cung cấp thông tin về khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.

+ Tăng cường tin học hoá trong quản lý khám chữa bệnh bảo hiểm y tế; giải quyết một cách khoa học và công bằng trong việc tổ chức khám chữa bệnh, không phân biệt người bệnh tự trả viện phí và người bệnh bảo hiểm y tế.

+ Công khai bảng giá viện phí theo quy định; thực hiện công khai, minh bạch các khoản chi phí mà người bệnh phải chi trả hay được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán.

- Triển khai Đề án giảm quá tải bệnh viện, Đề án 1816, Đề án bệnh viện vệ tinh, Đề án bác sỹ gia đình...

- Danh mục dịch vụ kỹ thuật được thực hiện tại các cơ sở KCB hiện nay có khoảng 17.000, hầu hết các dịch vụ kỹ thuật này được quỹ BHYT thanh toán.

121. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Người có bảo hiểm y tế khi khám, chữa bệnh trái tuyến thì không được thanh toán. Đề nghị thực hiện chi trả theo tỷ lệ % như quy định trước đây để người bệnh thuận tiện chọn nơi khám, chữa bệnh (An Giang).

Trả lời:

Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) thì khi người bệnh có thẻ BHYT đi khám bệnh, chữa bệnh trái tuyến tại tuyến tỉnh, tuyến Trung ương thì chỉ được được hưởng quyền lợi khi điều trị nội trú, được quỹ BHYT thanh toán lần lượt là 60%, 40% chi phí điều trị nội trú trong phạm vi quyền lợi và mức hưởng. Quy định này là một trong các biện pháp để bảo đảm giảm quá tải đối với các bệnh viện tuyến trên, tiếp cận cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với tình trạng bệnh, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của tuyến dưới.

Cũng theo quy định của Luật Bảo hiểm Y tế: từ 01/01/2021 sẽ thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh  nội trú và ngoại trú khi người bệnh có thẻ BHYT đi khám bệnh, chữa bệnh trái tuyến tại tuyến tỉnh trên toàn quốc.

122. Cử tri tỉnh Bà Rại – Vũng Tàu kiến nghị: Đề nghị ngành Y tế phối hợp với các cơ quan liên quan quản lý chặt chẽ hơn nữa các cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân, các cơ sở bán thuốc tây, vì trong thời gian qua một số bác sĩ, dược sĩ chạy theo lợi nhuận mà chưa quan tâm đúng mức đến bệnh nhân, nên để xảy ra nhiều sự việc đau lòng (Bà Rịa – Vũng Tàu).

Trả lời:

Trách nhiệm quản lý các cơ sở y tế tư nhân trên địa bàn các tỉnh, thành phố là thuộc về Ủy ban nhân dân các cấp. Trong thời gian qua, Bộ Y tế và 63 Sở Y tế tỉnh, thành phố đã tổ chức nhiều đợt thanh, kiểm tra hoạt động của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, kinh doanh dược tư nhân. Đồng thời Bộ Y tế đã ban hành các văn bản để đôn đốc nhắc nhở Sở Y tế các tỉnh thành phố, phối hợp với phòng y tế các quận huyện để giám sát thường xuyên hoạt động của các cơ sở này.

1. Đối với hoạt động khám chữa bệnh tư nhân

Bộ Y tế yêu cầu các Sở Y tế công khai danh sách người hành nghề và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân để người dân tiện theo dõi và giúp phát hiện các trường hợp hoạt động khám chữa bệnh không phép hoặc vượt quá phạm vi hoạt động cho phép.

Theo số liệu báo cáo của các Sở Y tế tỉnh, thành phố năm 2016 đã triển khai thanh tra, kiểm tra công tác khám, chữa bệnh đối với tổng số 11.906 cơ sở được thanh tra, kiểm tra, trong đó có 1.910 cơ sở vi phạm, đã xử lý vi phạm hành chính 1.521 cơ sở, với hình thức cảnh cáo 169 cơ sở, đình chỉ hoạt động 126 cơ sở, tước chứng chỉ hành nghề của 16 cá nhân, tước giấy phép hoạt động 9 cơ sở, 20 cơ sở hành nghề y tư nhân hoạt động không phép hoặc giấy phép hết hiệu lực. Tiến hành xử lý dừng hoạt động đối với 04 cơ sở, đình chỉ hoạt động 09 tháng đối với 09 cơ sở, tước quyền sử dụng Giấy phép hoạt động 4 tháng đối với 12 cơ sở, tước quyền sử dụng Giấy phép hoạt động 3 tháng 15 cơ sở; Xử phạt vi phạm hành chính 1.213 cơ sở với số tiền là 11.526.000.000 đồng.

2. Đối với hoạt động kinh doanh dược tư nhân

Bộ Y tế đã chỉ đạo các địa phương tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực dược – mỹ phẩm, trong đó có hoạt động thanh tra, kiểm tra các cơ sở kinh doanh thuốc – mỹ phẩm. Một số số liệu về hoạt động thanh kiểm tra của địa phương như sau:

Theo số liệu báo cáo của các Sở Y tế tỉnh, thành phố đã thanh tra, kiểm tra về lĩnh vực dược đối với tổng số 9.631 cơ sở được thanh tra, kiểm tra, trong đó có 1.806 cơ sở vi phạm, đã xử lý vi phạm hành chính 1.366 cơ sở, với hình thức cảnh cáo 196 cơ sở, đình chỉ hoạt động 112 cơ sở, tước giấy phép hoạt động 69 cơ sở, tiêu hủy 43 kg thuốc dược liệu không rõ nguồn gốc, đình chỉ 96 cơ sở hoạt động không phép, tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề 4 tháng 01 cá nhân, tước quyền sử giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc 4 tháng đối với 01 cơ sở. Tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề Dược có thời hạn 24 cơ sở; tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc có thời hạn 15 cơ sở. Tạm dừng hoạt động sản xuất mỹ phẩm đối với 25 cơ sở; tiêu hủy mỹ phẩm không rõ nguồn gốc xuất xứ tại 09 cơ sở trị giá 211.580.000 đồng; thu giữ 15 thùng thuốc hết hạn và tẩy date. Phạt tiền 1.258 cơ sở với tổng số tiền là 15.400.000.000 đồng.

123. Cử tri tỉnh BÌnh Dương kiến nghị: Cử tri phản ánh, chế độ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế cho người có công với cách mạng (đối tượng thuộc diện thương binh từ loại 2 đến loại 4) còn có những hạn chế như: một số thuốc đặc trị còn thiếu hoặc không thuộc danh mục được cấp, không được hỗ trợ phương pháp điều trị kỹ thuật cao,… Cử tri đề nghị ngành y tế nên quan tâm điều chỉnh cho phù hợp (Bình Dương).

Trả lời:

Theo quy định của Luật bảo hiểm y tế thì người có công với cách mạng theo quy định của Pháp luật người có công với cách mạng khi đi khám bệnh, chữa bệnh đúng quy định được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi được hưởng và chi phí vận chuyển người bệnh từ tuyến huyện lên tuyến trên trong trường hợp cấp cứu hoặc khi đang điều trị nội trú phải chuyển tuyến chuyên môn kỹ thuật.

1. Về Danh mục thuốc khám chữa bệnh bảo hiểm y tế:

Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 40/2014/TT-BYT ban hành và hướng dẫn thực hiện danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế và Thông tư số 05/2015/TT-BYT ngày 17/3/2015 ban hành và hướng dẫn danh mục thuốc động y, thuốc từ dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ bảo hiểm y tế.

Danh mục thuốc tân dược gồm 845 hoạt chất, 1064 thuốc với đầy đủ các chuyên khoa.Việt Nam được đánh giá là một trong số ít các nước trên thế giới có  danh mục thuốc tương đối đầy đủ, toàn diện và mở rộng so với mức phí đóng bảo hiểm y tế. Bộ Y tế có thể khẳng định Thông tư số 40/2014/TT-BYT ban hành đã đáp ứng được nhu cầu điều trị, bảo đảm được quyền lợi cho người bệnh có thẻ BHYT, đồng thời phù hợp với khả năng chi trả của quỹ bảo hiểm y tế.

Bên cạnh đó, Thông tư số 36/2015/TT-BYT sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 40/2014/TT-BYT đã cho phép người bệnh đang được điều trị một số thuốc ung thư Doxorubicin, Erlotinib, Gefitinib, Sorafenib trước ngày thông tư có hiệu lực, tiếp tục được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 100% chi phí.Quy định này giúp bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế, giúp cho người bệnh được sớm tiếp cận điều trị.

Danh mục thuốc y học cổ truyền hiện có 229 chế phẩm - tăng 102 chế phẩm, và 349 vị thuốc - tăng 49 vị thuốc so với Thông tư 12/2010/TT-BYT ngày 29/4/2010, được áp dụng cho tất cả các cơ sở khám chữa bệnh, bao gồm bệnh viện y học cổ truyền, bệnh viện có khoa y học cổ truyền, kể cả trạm y tế xã có đủ điều kiện khám chữa bệnhBHYT theo quy định.

Danh mục thuốc bảo hiểm y tế ban hành trong các Thông tư số 40/2014/TT-BYT và Thông tư số 05/2015/TT-BYT được ghi dưới dạng tên hoạt chất/thành phần, không ghi hàm lượng,dạng bào chế và tên thương mại. Như vậy, việc lựa chọn thuốc thành phẩm được Quỹ bảo hiểm y tếthanh toán tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không bị giới hạn bởi chủng loại thuốc với giá rẻ hay đắt, thuốc nội hay thuốc ngoại. Căn cứ vào mô hình bệnh tật, nhu cầu khám chữa bệnh và khả năng chi trả của Quỹ bảo hiểm y tế, cơ sở khám chữa bệnh xây dựng danh mục thuốc sử dụng tại đơn vị để mua sắm lựa chọn thuốc thành phẩm phù hợp.

Hiện nay, với mục tiêu đáp ứng ngày càng đầy đủ, chất lượng hơn về nhu cầu sử dụng thuốc của người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế, theo định kỳ 2 năm/lần, Bộ Y tế sẽ tiến hành rà soát, sửa đổi và bổ sung Danh mục; đặc biệt chú trọng việc mở rộng danh mục thuốc cho y tế tuyến cơ sở trong đó có trạm y tế xã.

2. Về kỹ thuật trong điều trị

Theo Thông tư số 43/2013/TT-BYT ngày 11/12/2013 của Bộ Y tế  quy định chi tiết phân tuyến chuyên môn kỹ thuật đối với hệ thống cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thì hiện nay có khoảng 17.000 dịch vụ kỹ thuật được thực hiện tại các cơ sở khám chữa bệnh. Về cơ bản, các dịch vụ này đều thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế.

124. Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế bổ sung thêm một số danh mục bệnh mãn tính, trong đó có bệnh thoái hóa bẩm sinh, để người có thẻ bảo hiểm y tế được cấp giấy chuyển tuyến lâu dài như các bệnh mãn tính khác, góp phần giảm chi phí cho người dân (Cần Thơ).

Trả lời:

Theo quy định của Thông tư số 40/2015/TT-BYT ngày 16/11/2015 quy định đăng ký khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu và chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế, hiện nay có 62 loại bệnh, nhóm bệnh trong danh mục bệnh cần điều trị dài ngày chỉ cần giấy chuyển viện 1 lần mà được sử dụng 1 năm.

Bộ Y tế tiếp thu kiến nghị của cử tri và sẽ thường xuyên rà soát, tổng hợp các yêu cầu bổ sung của các đơn vị, cá nhân, nếu phù hợp sẽ đưa vào danh mục bệnh được sử dụng giấy chuyển viện 01 năm.

125. Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị: Cử tri phản ánh, ở một số bệnh viện có tình trạng khi điều trị hai người bệnh cùng nằm chung một giường bệnh nhưng khi thanh toán viện phí lại tính mỗi người một giường bệnh.

Trả lời:

Hiện nay giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện theo các văn bản sau:

1. Đối tượng không có thẻ bảo hiểm y tế (BHYT): hiện nay vẫn thực hiện mức giá quy định tại Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BYT-BTC-BLĐTBXH ngày 26/01/2006 bổ sung thông tư liên bộ số 14/TTLB ngày 30/9/1995 của liên Bộ Y Tế - Bộ Tài chính - Lao động Thương binh và Xã hội - Ban Vật giá Chính phủ hướng dẫn thực hiện việc thu một phần viện phí và Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BYT-BTC ngày 29/02/2012 của Liên Bộ Y tế, Tài chính ban hành mức tối đa khung giá một số dịch vụ khám bệnh, chữa bệnhtrong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước (Thông tư 04). Mức giá do Liên Bộ quy định là giá tối đa, mức giá cụ thể tại các bệnh viện thuộc Bộ Y tế do Bộ Y tế quy định, tại địa phương do hội đồng nhân dân tỉnh quyết định.

   2. Đối tượng có thẻ BHYT: thực hiện theo quy định của Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTCngày 29/10/2017 của Liên Bộ Y tế, Tài chính quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc (Thông tư 37). Mức giá này do liên Bộ quy định và được áp dụng thống nhất chung cho các hạng bệnh viện theo quy định của Thông tư.

   3. Giá khám, chữa bệnh theo yêu cầu:được thực hiện theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị định số 85/2012/NĐ-CP ngày 25/10/2012 về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập. Mức giá này do đơn vị quyết định.

Theo phản ánh của cử tri việc thực hiện thanh toán như đã nêu sẽ chỉ xảy ra đối với trường hợp 1 và 2; trường hợp khám chữa bệnh theo yêu cầu không có tình trạng nằm ghép.

Bộ Y tế có ý kiến như sau: Tại Thông tư 04 và Thông tư 37 nêu trên đã quy định cụ thể: “Giá ngày giường điều trị được tính cho 01 người/01 ngày giường điều trị. Trường hợp phải nằm ghép 02 người/01 giường thì chỉ được thu tối đa 50%, trường hợp nằm ghép từ 03 người trở lên thì chỉ được thu tối đa 30% mức thu ngày giường điều trị”. Việc bệnh viện thu và thanh toán của người bệnh như phản ánh của cử tri là thực hiện chưa đúng quy định của liên Bộ.

Khi ban hành các Thông tư nêu trên, Bộ Y tế đều có văn bản hướng dẫn và quy định cụ thể vấn đề kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Luật Giá và các văn bản hướng dẫn thực hiện cũng quy định và hướng dẫn cụ thể việc thực hiện giá dịch vụ trong đó có dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh.

Bộ Y tế đề nghị cử tri nêu cụ thể bệnh viện thực hiện thu như cử tri phản ánh để Bộ Y tế xem xét và có biện pháp xử lý nếu bệnh viện đó thực hiện sai quy định.

126. Cử tri tỉnh Khánh Hòa kiến nghị: Việc Quỹ Bảo hiểm y tế có nguy cơ bị vỡ, do các cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân thực hiện không đúng các quy định về khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Cử tri đề nghị ngành Y tế phối hợp chặt chẽ với bảo hiểm xã hội thường xuyên kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và ngăn chặn tình trạng này; đồng thời có biện pháp xử lý kiên quyết những cơ sở khám, chữa bệnh vi phạm để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người tham gia bảo hiểm y tế (Khánh Hòa).

Trả lời:

Theo Luật Bảo hiểm y tế và các văn bản hướng dẫn, các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bao gồm cơ sở y tế công lập và ngoài công lập đều có trách nhiệm tham gia khám bệnh, chữa bệnh cho người dân. Trong những năm qua, các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân ngày càng tham gia và đóng góp nhiều hơn vào công tác khám bệnh, chữa bệnh. Các dịch vụ y tế mà các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân cung cấp ngày càng được phát triển nhiều hơn về chất lượng, tốt hơn về số lượng và thu hút ngày càng nhiều người có thẻ bảo hiểm y tế đến khám và chữa bệnh. Điều này đã và đang giúp giảm tải cho các bệnh viện công lập và ngày càng nâng cao sự cạnh tranh giữa các cơ sở khám chữa bệnh góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ y tế cho người bệnh nói chung và người tham gia bảo hiểm y tế nói riêng.

Tuy nhiên, hiện nay có một số người dân và thông tin báo chí phản ánh về một số các hiện tượng tiêu cực do các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân thực hiện không đúng các quy định về khám chữa bệnh, có các biểu hiện tiêu cực để trục lợi quỹ bảo hiểm y tế. Qua các thông tin phản ánh, Bộ Y tế cũng đã triển khai nhiều công tác thanh tra kiểm tra để phát hiện, xử lý ngăn chặn kịp thời các vi phạm.

Hiện nay, Bộ Y tế đã và đang tích cực chủ động phối hợp với các Bộ Ngành liên quan bao gồm Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tổng hội Y học Việt Nam và các cơ quan khác để thường xuyên kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và ngăn chặn tình trạng này; đồng thời có biện pháp xử lý kiên quyết những cơ sở khám chữa bệnh vi phạm để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho người tham gia Bảo hiểm y tế.

127. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Cử tri cho rằng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế khi thực hiện vẫn còn nhiều bất cập, chưa phù hợp như trường hợp bệnh nhân đang trong thời gian điều trị bệnh nhưng thẻ bảo hiểm y tế hết hạn thì phải ra viện làm lại thủ tục để được hưởng bảo hiểm y tế, làm ảnh hưởng đến quá trình điều trị của bệnh nhân. Đề nghị cần có giải pháp phù hợp nhằm khắc phục trực trạng trên, đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội (Nghệ An).

Trả lời:

Kiến nghị đề xuất của cử tri đã được giải quyết theo quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 11 Nghị định 105/2014/NĐ-CP ngày 15/11/2014 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHYT: “2. Trường hợp người có thẻ bảo hiểm y tế đang điều trị tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhưng thẻ bảo hiểm y tế hết hạn sử dụng thì vẫn được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi quyền lợi và mức hưởng theo chế độ quy định cho đến khi ra viện hoặc hết đợt điều trị ngoại trú.”

128. Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị: Đề nghị tăng cường giám sát việc cấp và phân bổ việc khám, chữa bệnh ban đầu cho người tham gia bảo hiểm y tế, các cơ sở khám, chữa bệnh phải bảo đảm trang thiết bị vật tư y tế cũng như chất lượng trong khám, chữa bệnh và từng bước phấn đấu cho người tham gia bảo hiểm y tế được lựa chọn nơi khám, chữa bệnh (Thanh Hóa).

Trả lời:

1. Về tăng cường giám sát việc cấp và phân bổ khám chữa bệnh ban đầu cho người tham gia bảo hiểm y tế

Hằng năm, Bộ Y tế thường xuyên tổ chức các đợt kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về bảo hiểm y tế tại địa phương, trong đó có nội dung kiểm tra, giám sát việc thực hiện phân bổ thẻ khám chữa bệnh ban đầu tại các cơ sở khám chữa bệnhphù hợp với khả năng đáp ứng của cơ sở khám chữa bệnh. Theo quy định các cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tếban đầu phải đáp ứng được các điều kiện về cơ sở vật chất, nhân lực thì mới được Sở Y tế địa phương đưa vào danh sách các cơ sở đăng ký khám chữa bệnhbảo hiểm y tếban đầu. Tiếp thu ý kiến của đại biểu, Bộ Y tế sẽ tổ chức các đoàn kiểm tra giám sát việc đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu và phân bổ thẻ bảo hiểm y tế tại các cơ sở khám chữa bệnh nhằm bảo đảm chất lượng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế trong năm 2017.

Hiện nay, theo quy định của Luật bảo hiểm y tế kể từ ngày 01/01/2016, người có thẻ bảo hiểm y tế được khám chữa bệnh tại bất kỳ bệnh viện tuyến huyện nào trong toàn quốc, người tham gia bảo hiểm y tế đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện được quyền khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh; Đối với các bệnh viện tuyến tỉnh, theo quy định của Luật bảo hiểm y tếthì thực hiện thông tuyến từ 01/01/2021.Quy định này sẽ giúp người dân có nhiều lựa chọn hơn trong việc khám chữa bệnh ban đầu, cũng như tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các cơ sở khám chữa bệnh trong việc thu hút người bệnh đến khám, điều trị.

2. Việc đầu tư trang thiết bị y tế để đảm bảo chất lượng khám chữa bệnh

Trong hơn một thập kỷ qua, Đảng và Quốc hội, Chính phủ đã đặc biệt quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng và trang thiết bị cho ngành Y tế. Nhiều bệnh viện được xây mới, được nâng cấp và mở rộng, nhiều trang thiết bị y tế đã được trang bị cho các cơ sở khám chữa bệnh, bao gồm cả những thiết bị hiện đại, kỹ thuật cao như robot phẫu thuật, máy cộng hưởng từ, máy CT scanner, máy chụp mạch, PET/CT... Nhờ đó đã cải thiện đáng kể tình trạng giảm quá tải bệnh viện, giảm tình trạng nằm ghép của bệnh nhân, nâng cao năng lực chẩn đoán, điều trị tại các cơ sở y tế công lập, ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.

Những dự án lớn về đầu tư trang thiết bị y tế cho các bệnh viện được Chính phủ chỉ đạo Bộ Y tế và các Bộ ngành thực hiện từ năm 2005 đến nay bao gồm: Đề án nâng cấp bệnh viện huyện và bệnh viện đa khoa khu vực giai đoạn 2005-2008 (theo Quyết định 225/2005/QĐ-TTg), trong đó quy định mua sắm trang thiết bị y tế thiết yếu theo danh mục do Bộ Y tế quy định phù hợp với quy mô của từng loại bệnh viện; Đề án Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện và bệnh viện đa khoa khu vực liên huyện sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2008-2010 (theo Quyết định 47/2008/QĐ-TTg), trong đó quy định mua sắm trang thiết bị y tế thiết yếu phù hợp với nhu cầu và trình độ cán bộ, phù hợp với quy mô từng loại bệnh viện; Đề án Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các bệnh viện chuyên khoa lao, tâm thần, ung bướu, chuyên khoa nhi và một số bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi khó khăn bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác giai đoạn 2009-2013, trong đó có đầu tư trang thiết bị đồng bộ với xây dựng cơ sở vật chất cho các bệnh viện.

Ngoài ra, Bộ Y tế cũng triển khai nhiều dự án như dự án Bệnh viện vệ tinh, dự án tăng cường năng lực y tế cho khu vực Bắc Trung bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng,…, trong đó có đầu tư trang thiết bị y tế cho các bệnh viện. Nhiều bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện được chuyển giao nhiều kỹ thuật y tế mới và được tiếp cận, đầu tư nhiều trang thiết bị y tế hiện đại (CT Scanner, MRI, Chụp mạch,...).

Đồng thời Chính phủ khuyến khích thực hiện xã hội hóa việc đầu tư trang thiết bị y tế cho các cơ sở khám chữa bệnh. Thực hiện chính sách này, nhiều bệnh viện và cơ sở khám chữa bệnh tư nhân đã đầu tư các thiết bị kỹ thuật hiện đại phục vụ việc chẩn đoán và điều trị.

Mặc dù đã rất cố gắng tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và trang thiết bị cho hệ thống các cơ sở khám chữa bệnh, nhưng hiện vẫn chưa đủ để đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về chăm sóc sức khỏe của người dân. Vì vậy, trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tiếp tục đề nghị đầu tư trang thiết bị y tế cho các bệnh viện địa phương bằng nhiều nguồn vốn hợp pháp khác, như nguồn từ ngân sách, nguồn vốn xã hội hóa, nguồn đầu tư nước ngoài trên cơ sở thực hiện nguyên tắc đảm bảo sử dụng có hiệu quả thiết bị được cung cấp, tránh lãng phí, lạm dụng để góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, giảm quá tải bệnh viện tuyến Trung ương.

129. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Đề nghị xem xét cho bệnh nhân tham gia bảo hiểm y tế được khám, chữa bệnh tại nơi tạm trú (Trà Vinh).

Trả lời:

Theo quy định, khi người tham gia bảo hiểm y tế khi đi công tác hoặc đến tạm trú tại địa phương khác thì được khám chữa bệnh tại cơ sở khám chữa bệnh nơi tạm trú tương đương với tuyến của cơ sở khám chữa bệnh ghi trên thẻ bảo hiểm y tế. 

Ngoài ra, theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế thì khi đăng ký tạm trú tại một địa phương, người dân có quyền tham gia bảo hiểm y tế và lựa chọn cơ sở khám bệnh, chữa bệnh ban đầu ngay tại địa phương đó.

130. Cử tri tỉnh Bình Phước, Hà Nam kiến nghị: Theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Bảo hiểm Y tế năm 2014 và Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 24/11/2014 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính thì người dân muốn tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện phải tham gia theo hình thức hộ gia đình, điều này gây khó khăn cho người dân khi tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện vì đối với những gia đình đông người, kinh tế khó khăn sẽ không có khả năng tham gia bảo hiểm y tế cho tất cả các khẩu trong gia đình.

Đề nghị Chính phủ quan tâm, nghiên cứu sửa đổi quy định về hình thức tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện theo hướng cho phép người dân được lựa chọn tham gia giữa hình thức bảo hiểm y tế cá nhân và bảo hiểm y tế hộ gia đình để các cá nhân có điều kiện tham gia bảo hiểm y tế tốt hơn.

Trả lời:

Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế thì bảo hiểm y tế là hình thức bắt buộc được áp dụng đối với tất cả các đối tượng quy định trong Luật.

Điểm mới quan trọng của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 là quy định tất cả các thành viên thuộc hộ gia đình phải tham gia bảo hiểm y tế. Quy định này để bảo đảm nguyên tắc chia sẻ giữa người khỏe với người ốm ngay trong hộ gia đình, tránh tình trạng chỉ có người ốm mới tham gia bảo hiểm y tế.

Để tạo điều kiện và khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm y tế, trường hợp tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình, tại Khoản 3 Điều 13 Luật Bảo hiểm y tế đã quy định mức đóng bảo hiểm y tế được giảm trừ dần từ thành viên thứ hai trở đi khi tất cả thành viên hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế, cụ thể là:

- Người thứ nhất đóng bằng 4,5% mức lương cơ sở (hiện tại tương đương 621.000 đồng/thẻ/ năm);

- Người thứ hai, thứ ba, thứ tư đóng lần lượt bằng 70%, 60%, 50% mức đóng của người thứ nhất;

- Từ người thứ năm trở đi đóng bằng 40% mức đóng của người thứ nhất.

 Ngày 10/06/2016, Thủ tướng Chính phủ đã có Công văn số 1018/TTg-KGVX về việc tăng cường phát triển, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế và tin học hóa công tác giám định, thanh toán chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Trong đó có nêu: Đẩy mạnh hơn nữa các hình thức tuyên truyền, vận động để người dân tích cực tham gia bảo hiểm y tế theo hình thức hộ gia đình, đảm bảo trong năm tài chính có 100% thành viên thuộc hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế để được giảm trừ mức đóng bảo hiểm y tếtheo quy định của Luật Bảo hiểm y tế, phổ biến để người dân hiểu, đồng thuận và tích cực tham gia bảo hiểm y tế, thông báo việc thu hồi việc giảm trừ mức đóng nếu hết năm tài chính mà các thành viên của hộ gia đình đó vẫn không tham gia đầy đủ.

131. Cử tri tỉnh Bắc Giang kiến nghị: Cử tri cho rằng, chính sách bảo hiểm y tế là cứu cánh cho dân nghèo, nhưng giá mua bảo hiểm y tế tăng dần theo từng năm, gây khó khăn cho người có thu nhập thấp, đề nghị nên xem xét tăng cho phù hợp tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở từng vùng (An Giang). Câu 29. Việc thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân hiện nay mới chỉ đạt khoảng hơn 70%, còn lại khoảng gần 30% người dân, chủ yếu là các hộ còn khó khăn, không có điều kiện tham gia bảo hiểm y tế. Đề nghị giảm mức phí bảo hiểm y tế xuống thấp hơn hoặc có nhiều mức để người dân lựa chọn, để mọi người dân có điều kiện tham gia (Bắc Giang).

Trả lời:

Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế thì mức đóng bảo hiểm y tế tối đa bằng 6% tiền lương tháng, mức lương cơ sở. Hiện nay, theo Nghị định số 105/2014/NĐ-CP ngày 15/11/2014 của Chính phủ ngày thì mức đóng bảo hiểm y tế hiện nay là 4,5% tiền lương tháng, mức lương cơ sở. Một số đối tượng đóng bảo hiểm y tế theo mức lương cơ sở (hiện nay là 1.210.000 đống/tháng) khi tăng lương cơ sở theo quy định của Chính phủ thì só tiền đóng của các đối tượng này cũng tăng theo.

Trong điều kiện kinh tế đất nước còn nghèo, nhưng Việt Nam đã có hơn 81,7% dân số tham gia bảo hiểm y tế, phần lớn trong số này là những đối tượng được ngân sách nhà nước bảo đảm hoặc hỗ trợ mức đóng bảo hiểm y tế, cụ thể:

1.  Người nghèo, người dân tộc thiểu số sinh sống tại các vùng khó khăn, người sinh sống tại vùng đặc biệt khó khăn, Trẻ em dưới 6 tuổi, người có công với cách mạng, thân nhân người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, cựu chiến binh, người đã hiến mô, bộ phận cơ thể… đều được ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% mức đóng bảo hiểm y tế.

2. Học sinh sinh viên, người thuộc hộ gia đình cận nghèo, người thuộc hộ gia đình nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp được nhà nước hỗ trợ từ 30 - 70% mức đóng bảo hiểm y tế.

Để tạo điều kiện cho các hộ nghèo đã thoát nghèo tiếp tục tham gia bảo hiểm y tế, từ ngày 01/01/2013 thực hiện Quyết định 705/QĐ-TTg ngày 08/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ, ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% mức đóng bảo hiểm y tế cho một số đối tượng người thuộc hộ gia đình cận nghèo theo chuẩn nghèo quốc gia, gồm:

- Người thuộc hộ gia đình cận nghèo mới thoát nghèo, thời gian hỗ trợ 05 năm sau khi thoát nghèo. Trường hợp người thuộc hộ cận nghèo đã thoát nghèo trước ngày 01/01/2013 nhưng thời gian thoát nghèo tính đến ngày 01/01/2013 chưa đủ 05 năm, thời gian còn lại được ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% mức đóng bảo hiểm y tế, thời gian hỗ trợ thấp nhất là 01 năm.

- Người thuộc hộ gia đình cận nghèo đang sinh sống tại các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo và các huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao được áp dụng cơ chế, chính sách theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12 /2008 của Chính phủ.

4. Đối với đối tượng tham gia bảo hiểm y tế theo hình thức hộ gia đình được giảm mức đóng bảo hiểm y tế như sau:

-  Mức đóng được giảm dần từ thành viên thứ hai trở đi: Người thứ hai, thứ ba, thứ tư đóng lần lượt bằng 70%, 60%, 50% mức đóng của người thứ nhất; Từ người thứ năm trở đi đóng bằng 40% mức đóng của người thứ nhất.

Như vậy, về cơ bản người nghèo, cận nghèo, dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng đã được ngân sách nhà nước đóng hoặc hỗ trợ mức đóng phù hợp với từng đối tượng.

Bộ Y tế trân trọng đề nghị cử tri quan tâm, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về bảo hiểm y tế và tích cực tuyên truyền trong cộng đồng để chung tay cùng nhà nước thực hiện mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân.

132. Cử tri tỉnh Bến Tre kiến nghị: Việc cấp phát thẻ bảo hiểm y tế cho người dân sống ở xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển còn chậm, do phải chờ các cơ quan trung ương xét, công bố danh sách, cũng như chế độ, chính sách đối với các xã thuộc bãi ngang. Đề nghị quan tâm, sớm công bố danh sách, cũng như chế độ hỗ trợ để người dân được hưởng trọn vẹn, kịp thời các chính sách của Nhà nước (Bến Tre).

Trả lời:

Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế,  trách nhiệm rà soát nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm y tế trên địa bàn thuộc Ủy ban nhân dân các cấp. Đối với những người dân sống ở các vùng đặc biệt khó khăn, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1559/QĐ-TTg ngày 05/8/2016 phê duyệt tiêu chí xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo giai đoạn 2016 - 2020.

Trong năm 2015 - 2016, đã có tổng số 10.074.882 thẻ bảo hiểm y tế thuộc nhóm đối tượng đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; sinh sống tại xã đảo, huyện đảo, vùng bãi ngang ven biển:

(i) Số đối tượng người dân tộc thiểu số và người thuộc hộ gia đình nghèo đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (mã thẻ K1): 3.146.265 thẻ;

(ii)  Số đối tượng người dân tộc thiểu số và người thuộc hộ gia đình nghèo sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (mã thẻ K2): 6.556.525 thẻ;

(iii) Số đối tượng người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo (mã thẻ K3): 372.092 thẻ (theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam).

Luật Bảo hiểm y tế đã giao cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện việc xác định, quản lý đối tượng đối với đối tượng người dân sống ở xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển.

133. Cử tri tỉnh Bình Thuận kiến nghị: Cử tri kiến nghị việc mua bảo hiểm y tế sau 1 tháng mới được cấp thẻ và có hiệu lực trong khám, chữa bệnh là không hợp lý, là chiếm dụng tiền khám, chữa bệnh 1 tháng của người mua, đề nghị nghiên cứu thẻ bảo hiểm y tế có hiệu lực ngay sau khi mua bảo hiểm y tế (Bình Thuận).

Trả lời:

Luật Bảo hiểm y tế quy định đối với người tham gia bảo hiểm y tế lần đầu tiên theo quy định tại khoản 4 và 5 Điều 12 của Luật BHYT hoặc tham gia không liên tục từ 3 tháng trở lên trong năm tài chính thì thẻ bảo hiểm y tế có giá trị sử dụng sau 30 ngày, kể từ ngày đóng bảo hiểm y tế.

Trên thực tế, có một bộ phận người dân không thuộc các đối tượng không đủ khả năng mua bảo hiểm y tế nhưng chỉ đến khi ốm đau bệnh tật mới tham gia bảo hiểm y tế. Điều này là không công bằng giữa những người đã tham gia bảo hiểm y tế nhiều năm nhưng chưa một lần phải sử dụng đến thẻ bảo hiểm y tế vì không có nhu cầu khám chữa bệnh, đồng thời những người này hàng ngày vẫn “chia sẻ rủi ro” với người bệnh. Trong khi có những người dân có đủ khả năng đóng bảo hiểm y tế, nhưng chưa nhận thức tầm quan trọng và ý nghĩa của bảo hiểm y tế, nên chỉ khi ốm đau mới tham gia bảo hiểm y tế lại muốn được hưởng quyền lợi bảo hiểm y tế ngay từ thời điểm đóng bảo hiểm y tế.

Do đó, khi xây dựng Luật Bảo hiểm y tế, Bộ Y tế và các Bộ ban ngành đã thống nhất đề xuất phương án “thẻ bảo hiểm y tế có giá trị sử dụng sau 30 ngày, kể từ ngày đóng bảo hiểm y tế” nhằm tăng cường ý thức tham gia bảo hiểm y tế của người dân, tránh hiện tượng người dân đến khi ốm đau mới tham gia bảo hiểm y tế, đồng thời nhằm khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm y tế ngay từ khi còn chưa ốm đau bệnh tật một cách thường xuyên liên tục, để chia sẻ rủi ro với những người không may ốm đau bệnh tật.

Đối với những người đã tham gia bảo hiểm y tế, nếu phải cấp lại thẻ thì trong thời gian chờ cấp lại thẻ, người tham gia bảo hiểm y tế vẫn được hưởng quyền lợi bảo hiểm y tế. Như vậy, quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế vẫn được đảm bảo.

134. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị: Mặc dù cho đến nay phần lớn người đã tham gia mua bảo hiểm y tế nhưng vẫn còn rườm rà trong thủ tục thanh toán do sự không thống nhất trong hệ thống bệnh viện các tuyến. Đó là trường hợp một số bệnh viện không tham gia ký hợp đồng với cơ quan bảo hiểm, nên khi người dân khám chữa bệnh tại bệnh viện đó không thanh toán được bằng thẻ bảo hiểm y tế mà phải tập hợp toàn bộ giấy tờ đến cơ quan bảo hiểm xã hội để thanh toán trực tiếp. Việc này gây mất thời gian, chi phí đi lại cho người dân. Do đó, đề nghị Bộ y tế nghiên cứu, đưa ra giải pháp thống nhất trong hệ thống bệnh viện để người dân yên tâm mua bảo hiểm y tế.

Trả lời:

Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, năm 2016 cơ quan bảo hiểm xã hội đã ký hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế với 1465 cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhà nước, trong đó có: 968 bệnh viện nhà nước (các bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh và tuyến Trung ương), 102 Phòng khám, 344 Trung tâm y tế; 364 bệnh viện và phòng khám đa khoa, chuyên khoa tư nhân; khoảng 10.000 trạm y tế xã để thực hiện khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế.

Như vậy, hầu hết các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đang hoạt động đều đã tổ chức khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế đáp ứng đủ nhu cầu khám chữa bệnh của người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế. Để bảo đảm quyền lợi của mình, đề nghị người dân có thẻ bảo hiểm y tế khi đi khám bệnh, chữa bệnh (trừ trường hợp cấp cứu) đến nơi khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu được ghi trên thẻ bảo hiểm y tế để được khám bệnh, chữa bệnh.

Đối với trường hợp thanh toán trực tiếp tại cơ quan bảo hiểm xã hội, hiện nay, Bộ Y tế đang phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam để đơn giản hóa thủ tục thanh toán nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân.

135. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về bảo hiểm y tế, làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chính sách bảo hiểm y tế tại các địa phương, trong đó tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống giá dịch vụ y tế. Thực tế trên địa bản tỉnh Hải Dương mới có trên 8.000 dịch vụ y tế áp dụng được giá do Bộ Y tế ban hành, còn trên 600 dịch vụ y tế chưa có giá chung của toàn quốc phải tạm thời áp dụng giá cũ do Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt (Hải Dương).

Trả lời:

Thực hiện quy định của Luật Bảo hiểm y tế, Bộ Y tế, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 quy định về giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh được quỹ BHYT thanh toán thống nhất theo hạng bệnh viện trên toàn quốc với gần 1.900 Danh mục dịch vụ kỹ thuật. Tại thời điểm triển khai xây dựng Thông tư, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 43/2013/TT-BYT ngày 11/12/2013 quy định chi tiết phân tuyến chuyên môn kỹ thuật đối với hệ thống cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, trong đó đã quy định danh mục kỹ thuật với 18.215 danh mục dịch vụ kỹ thuật.

Do số lượng dịch vụ, kỹ thuật theo Thông tư số 43/2013/TT-BYT ngày 11/12/2013 nhiều hơn danh mục dịch vụ kỹ thuật  quy định giá tại Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015, Bộ Y tế phải thực hiện phiên giá thanh toán của từng danh mục dịch vụ kỹ thuật tương đương theo quy trình chuyên môn và chi phí tại Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 để làm cơ sở thanh toán, việc phiên giá này phức tạp và tốn nhiều thời gian, đến nay Bộ Y tế đã thực hiện phiên giá tương đương được 8.487 dịch vụ kỹ thuật trên tổng số 18.215 dịch vụ kỹ thuật.

Hiện nay Bộ Y tế đang phối hợp với Bộ Tài chính và Bảo hiểm xã hội Việt Nam sửa Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015, theo đó sẽ nhóm các dịch vụ kỹ thuật còn 2.000 đến 3.000 dịch vụ kỹ thuật để xây dựng giá thống nhất và để cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện được thuận lợi.

136. Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: Cử tri tiếp tục phản ánh quy định người tự nguyện tham gia bảo hiểm y tế thì phải tham gia theo cả hộ gia đình là rất bất cập, không hợp lý vì nhiều gia đình ở nông thôn, kinh tế gia đình khó khăn không đủ điều kiện để tham gia đóng bảo hiểm y tế cả hộ gia đình. Đề nghị Bộ Y tế nghiên cứu điều chỉnh quy định này cho phù hợp (Hà Nội).

Trả lời:

Điểm mới quan trọng của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 là quy định tất cả các thành viên thuộc hộ gia đình phải tham gia bảo hiểm y tế. Quy định này để bảo đảm nguyên tắc chia sẻ giữa người khỏe với người ốm ngay trong hộ gia đình, tránh tình trạng chỉ có người ốm mới tham gia bảo hiểm y tế. Việc quy định bắt buộc các đối tượng tham gia bảo hiểm y tế để thể hiện sự quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm y tế toàn dân. Trước đó, ngày 29/3/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 538/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân giai đoạn 2012-2015 và 2020 với các giải pháp cụ thể được nêu ra cũng như giao trách nhiệm cụ thể cho các Bộ, ngành có liên quan để thực hiện.

Về mức đóng bảo hiểm y tế được quy định cụ thể trong Luật bảo hiểm y tế và các văn bản hướng dẫn được tính toán dựa vào khả năng đóng góp của các nhóm đối tượng, mức lương cơ sở, phạm vi quyền lợi và khả năng cân đối quỹ bảo hiểm y tế; các Bộ, ngành và các Đại biểu Quốc hội đã thảo luận rất kỹ trước khi quyết định. Những đối tượng chính sách xã hội đã được nhà nước mua thẻ bảo hiểm y tế: người nghèo, người dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng… được Nhà nước đóng (100%), người thuộc hộ gia đình cận nghèo được ngân sách nhà nước hỗ trợ 70% mức đóng. Vì vậy, mức đóng quy định như hiện nay là tương đối phù hợp, đảm bảo tương đối mức đóng so với mức hưởng, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm y tếvà cân đối thu chi quỹ bảo hiểm y tế.

Để tạo điều kiện và khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm y tế, trường hợp tham gia bảo hiểm y tếtheo hộ gia đình, tại Khoản 3 Điều 13 Luật Bảo hiểm y tế đã quy định mức đóng bảo hiểm y tế được giảm trừ dần từ thành viên thứ hai trở đi khi tất cả thành viên hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế, cụ thể là:

- Người thứ nhất đóng bằng 4,5% mức lương cơ sở (hiện tại tương đương 621.000 đồng/thẻ/ năm);

- Người thứ hai, thứ ba, thứ tư đóng lần lượt bằng 70%, 60%, 50% mức đóng của người thứ nhất;

- Từ người thứ năm trở đi đóng bằng 40% mức đóng của người thứ nhất.

Bộ Y tế cũng đã phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam đơn giản hóa, bãi bỏ các thủ tục không cần thiết, theo đó, hộ gia đình tự chịu trách nhiệm trước pháp luật trong việc kê khai thành viên trong hộ gia đình, không bắt buộc người tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình phải trình cơ quan quản lý các loại giấy tờ để chứng minh về đặc điểm nhân thân đối tượng, về sự tham gia bảo hiểm y tế của thành viên hộ gia đình.

137. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Cử tri phản ánh, việc thực hiện bảo hiểm y tế theo hộ gia đình bộc lộ nhiều vướng mắc khiến nhiều người không thể tham gia (những người làm ăn xa, những người trong gia đình có người không muốn tham gia…). Bên cạnh đó, thủ tục rườm rà, khó khăn cho người dân (để được mua bảo hiểm y tế, người dân phải mang theo rất nhiều giấu tờ như sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân, thể bảo hiểm y tế của các thành viên trong gia đình, kèm bảo sản chụp các loại giấy tờ…). Đề nghị nghiên cứu, đánh giá lại việc tham gia bảo hiểm y tế gia đình theo quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Bảo hiểm y tế (Nghệ An).

Trả lời:

Để tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục cho người dân tham gia BHYT theo hình thức hộ gia đình, Bộ Y tế đã có Công văn số 3638/BYT-BH ngày 29 tháng 05 năm 2015 gửi Bảo hiểm xã hội Việt Nam về việc đơn giản hóa thủ tục tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình.

Ngày 08/6/2015, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã có công văn số 2085/BHXH-BT gửi Bảo hiểm xã hội các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương. Trong đó hướng dẫn về việc đơn giản hóa, bãi bỏ các thủ tục không cần thiết, theo đó, hộ gia đình tự chịu trách nhiệm trước pháp luật trong việc kê khai thành viên trong hộ gia đình, không bắt buộc người tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình phải trình cơ quan quản lý các loại giấy tờ để chứng minh về đặc điểm nhân thân đối tượng, về sự tham gia bảo hiểm y tế của thành viên hộ gia đình.

Bộ Y tế sẽ phối hợp với Bảo hiểm Xã hội Việt Nam nghiên cứu, đánh giá lại việc tham gia bảo hiểm y tế gia đình theo quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Bảo hiểm y tế.

138. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Đề nghị quan tâm có chính sách cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người dân tộc Kinh sống trong vùng đặc biệt khó khăn (Nghệ An).

Trả lời:

Theo quy định của Luật bảo hiểm y tế người đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (bao gồm cả người Kinh và người dân tộc thiểu số) hiện nay đều được ngân sách Nhà nước đảm bảo đóng bảo hiểm y tế.

139. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Cử tri đề nghị nghiên cứu, xem xét trình Quốc hội sửa đổi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế năm 2014 theo hướng: “Khi thực hiện mua bảo hiểm y tế theo hộ gia đình, số lượng cá nhân trong hộ đã tham gia bảo hiểm y tế theo quy định tại điểm a, Khoản 1, Điều 12 sẽ được tính để giảm dần mức đóng cho các thành viên còn lại trong hộ gia đình”. Quy định này nhằm đảm bảo sự công bằng cho những người cùng tham gia bảo hiểm y tế nhưng không phải do ngân sách nhà nước chi trả. Vì bản thân họ đã trích ra một phần lương tương ứng với số tiền 6% tiền lương tháng (bằng hoặc lớn hơn 6% mức lương cơ sở) tương ứng với mức đóng của người thứ nhất khi tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình, đồng thời đây cũng là giải pháp tốt để khuyển khích và thực hiện hiệu quả việc tham gia bảo hiểm y tế toàn dân (Tiền Giang).

Trả lời:

Bộ Y tế xin tiếp thu kiến nghị của cử tri và tiếp tục phối hợp với các Bộ ngành nghiên cứu, báo cáo Chính phủ và các cấp có thẩm quyền xem xét.

140. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị nghiên cứu các giải pháp nhằm tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc trong thực hiện bảo hiểm y tế theo hộ gia đình, tạo điều kiện để cá nhân tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình được thông thoáng hơn, nhất là trong trường hộ gia đình có người đi làm ăn xa hơn 6 tháng, họ kông mua bảo hiểm y tế thì những cá nhân khác trong hộ gia đình không thể mua được, còn nếu họ mua bảo hiểm y tế chung với hộ gia đình thì nơi đăng ký khám, chữa bệnh ban đầu lại không thực hiện được vì quá xa, như vậy, họ chỉ sử dụng được trong trường hợp cấp cứu (hiện nay, Quỹ Bảo hiểm y tế không thực hiện chi trả đối với việc điều trị ngoại trú trái tuyến) (Tiền Giang).

Trả lời:

1. Đối với giải pháp tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc trong việc tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình

Ngày 10/06/2016, tại công văn số 1018/TTg-KGVX Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo: Đẩy mạnh hơn nữa các hình thức tuyên truyền, vận động để người dân tích cực tham gia bảo hiểm y tế theo hình thức hộ gia đình, đảm bảo trong năm tài chính có 100% thành viên thuộc hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế để được giảm trừ mức đóng bảo hiểm y tế theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế, phổ biến để người dân hiểu, đồng thuận và tích cực tham gia bảo hiểm y tế, thông báo việc thu hồi việc giảm trừ mức đóng nếu hết năm tài chính mà các thành viên của hộ gia đình đó vẫn không tham gia đầy đủ.

Để tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục cho người dân tham gia bảo hiểm y tế theo hình thức hộ gia đình, Bộ Y tế đã có công văn số 3638/BYT-BH ngày 29 tháng 05 năm 2015 gửi BHXH về việc đơn giản hóa thủ tục tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình.

Ngày 08/6/2015, Bảo hiểm xã hội Việt Nam cũng đã có công văn số 2085/BHXH-BT gửi Bảo hiểm xã hội các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương. Trong đó hướng dẫn về việc đơn giản hóa, bãi bỏ các thủ tục không cần thiết, theo đó, hộ gia đình tự chịu trách nhiệm trước pháp luật trong việc kê khai thành viên trong hộ gia đình, không bắt buộc người tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình phải trình cơ quan quản lý các loại giấy tờ để chứng minh về đặc điểm nhân thân đối tượng, về sự tham gia bảo hiểm y tế của thành viên hộ gia đình.

2. Đối với trường hộ gia đình có người đi làm ăn xa hơn 6 tháng họ mua bảo hiểm y tế chung với hộ gia đình muốn thay đổi nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu cho phù hợp với nơi học làm ăn và sinh sống thì người đó mang thẻ bảo hiểm y tế đến cơ quan Bảo hiểm xã hội nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu ghi trên thẻ bảo hiểm y tế để đăng ký lại nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu phù hợp với nơi cư trú mà người đó đang lao động và sinh sống.

3. Đối với việc khám chữa bệnh không đúng nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu ghi trên thẻ bảo hiểm y tế: Theo quy định tại Khoản 4 Điều 22 của Luật Bảo hiểm y tế, kể từ ngày 01/1/2016, người tham gia bảo hiểm y tế đăng ký khám chữa bệnh ban đầu tại trạm y tế xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện được quyền khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh.

141. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Đề nghị xem xét cho chủ trương học sinh, sinh viên được mua bảo hiểm y tế theo hộ gia đình, không bắt buộc mua tại trường học nhằm được hưởng chính sách giảm giá mua theo đầu người tại hộ gia đình (Trà Vinh). Câu 41. Nhiều ý kiến cử tri cho rằng mức đóng bảo hiểm y tế của học sinh, sinh viên hiện cao hơn mức đóng của thành viên thứ ba trở đi trong hộ gia đình (dù mức hưởng bảo hiểm y tế như nhau). Nhằm khuyến khích đông đảo người dân tham gia bảo hiểm y tế, cử tri đề nghị cho phép học sinh, sinh viên được mua bảo hiểm y tế theo hộ gia đình để được giảm trừ theo số lượng thành viên trong hộ, nhà có hai con đi học nếu mua theo hộ gia đình bốn người thì người dân có lợi hơn, Nhà nước không phải chi ngân sách hỗ trợ 30% cho bảo hiểm y tế học đường như hiện nay (Long An).

Trả lời:

Hiện nay đối tượng tham gia bảo hiểm y tế nói chung, học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế nói riêng đều có thể gặp trường hợp người tham gia bảo hiểm y tế nói chung hoặc 1 học sinh, sinh viên khi tham gia bảo hiểm y tế có thể thuộc nhiều đối tượng khác nhau theo quy định của Luật bảo hiểm y tế.

Để tránh xáo trộn, trùng lặp, khó khăn trong việc bao phủ theo các nhóm đối tượng, thuận lợi trong việc quản lý đối tượng bảo hiểm y tế theo trình tự nhất định, Luật bảo hiểm y tế quy định: Các đối tượng tham gia bảo hiểm y tế theo thứ tự từ trên xuống dưới của Điều 12 Luật bảo hiểm y tế, trong đó vì học sinh, sinh viên  thuộc Nhóm 4 (Nhóm được ngân sách Nhà nước hỗ trợ mức đóng), nên không tham gia bảo hiểm y tế theo Nhóm 5 (Nhóm hộ gia đình/tự đóng bảo hiểm y tế) được, quy định này phần nào cũng chưa động viên, tạo điều kiện thuận lợi nhất để tất cả học sinh, sinh viên có trách nhiệm tham gia bảo hiểm y tế, ảnh hưởng đến quyền lợi được giảm trừ mức đóng bảo hiểm y tế của học sinh, sinh viên khi không tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình (nhất là đối với học sinh, sinh viên thuộc các hộ gia đình có từ 4 thành viên trở lên).

Tuy nhiên, để khắc phục nhược điểm về mặt chính sách, sự thiệt thòi về mức đóng bảo hiểm y tế của học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế, hiện nay chính sách đang quy định: Với đối tượng học sinh, sinh viên thuộc hộ gia đình nghèo và thuộc hộ cận nghèo đang sinh sống ở các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ – CP ngày 27/12/2008 của CP về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo và các huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao, được áp dung cơ chế chính sách theo NQ số 30a/2008/NQ - CP, đã có quy định được nhà nước hỗ trợ 100% mức đóng BHYT và được hưởng 100% chi phí khám chữa bệnh trong pham vi quyền lợi.

Đối với nhóm học sinh, sinh viên còn lại, Bộ Y tế đang chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng dự thảo Nghị định mới thay thế Nghị định 105/NĐ-CP trình Chính phủ ban hành (Bảo hiểm xã hội Việt Nam cũng đã có CV Số 4643/CSYT-BHXH VN ngày 11/11/2015 trình Chính phủ), trong đó có nội dung đề nghị bổ sung, sửa đổi tại Nghị định mới là: đề nghị từ ngày 01/01/ 2018  tăng mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế từ Ngân sách nhà nước của học sinh, sinh viên từ 30%  lên 50% (với đối tượng tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình, ngoài việc quy định giảm trừ mức đóng theo hộ gia đình mà Luật bảo hiểm y tế đã quy định, hiện tại chưa có bổ sung thêm hỗ trợ mức đóng bảo hiểm y tế khác).   

142. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Đề nghị xem xét nâng cao chất lượng các chủng loại thuốc điều trị trong khám bệnh bảo hiểm y tế, vì hiện nay thuốc bảo hiểm y tế sử dụng uống lâu ngày không hết bệnh (Long An).

Trả lời:

Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 40/2014/TT-BYT ban hành và hướng dẫn thực hiện danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế và Thông tư số 05/2015/TT-BYT ngày 17/3/2015 ban hành và hướng dẫn danh mục thuốc động y, thuốc từ dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ bảo hiểm y tế.

Danh mục thuốc tân dược gồm 845 hoạt chất, 1064 thuốc với đầy đủ các chuyên khoa.Việt Nam được đánh giá là một trong số ít các nước trên thế giới có  danh mục thuốc tương đối đầy đủ, toàn diện và mở rộng so với mức phí đóng bảo hiểm y tế. Bộ Y tế có thể khẳng định Thông tư số 40/2014/TT-BYT ban hành đã đáp ứng được nhu cầu điều trị, bảo đảm được quyền lợi cho người bệnh có thẻ BHYT, đồng thời phù hợp với khả năng chi trả của quỹ bảo hiểm y tế.

Bên cạnh đó, Thông tư số 36/2015/TT-BYT sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 40/2014/TT-BYT đã cho phép người bệnh đang được điều trị một số thuốc ung thư Doxorubicin, Erlotinib, Gefitinib, Sorafenib trước ngày thông tư có hiệu lực, tiếp tục được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 100% chi phí. Quy định này giúp bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế, giúp cho người bệnh được sớm tiếp cận điều trị.

Danh mục thuốc y học cổ truyền hiện có 229 chế phẩm - tăng 102 chế phẩm, và 349 vị thuốc - tăng 49 vị thuốc so với Thông tư 12/2010/TT-BYT ngày 29/4/2010, được áp dụng cho tất cả các cơ sở khám chữa bệnh, bao gồm bệnh viện y học cổ truyền, bệnh viện có khoa y học cổ truyền, kể cả trạm y tế xã có đủ điều kiện khám chữa bệnh BHYT theo quy định.

Danh mục thuốc bảo hiểm y tế ban hành trong các Thông tư số 40/2014/TT-BYT và Thông tư số 05/2015/TT-BYT được ghi dưới dạng tên hoạt chất/thành phần, không ghi hàm lượng,dạng bào chế và tên thương mại. Như vậy, việc lựa chọn thuốc thành phẩm được Quỹ bảo hiểm y tế thanh toán tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không bị giới hạn bởi chủng loại thuốc với giá rẻ hay đắt, thuốc nội hay thuốc ngoại. Căn cứ vào mô hình bệnh tật, nhu cầu khám chữa bệnh và khả năng chi trả của Quỹ bảo hiểm y tế, cơ sở khám chữa bệnh xây dựng danh mục thuốc sử dụng tại đơn vị để mua sắm lựa chọn thuốc thành phẩm phù hợp.

Hiện nay, với mục tiêu đáp ứng ngày càng đầy đủ, chất lượng hơn về nhu cầu sử dụng thuốc của người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế, theo định kỳ 2 năm/lần, Bộ Y tế sẽ tiến hành rà soát, sửa đổi và bổ sung Danh mục; đặc biệt chú trọng việc mở rộng danh mục thuốc cho y tế tuyến cơ sở trong đó có trạm y tế xã.

143. Cử tri TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị ngành Y tế cần quan tâm đến việc mua BHYT toàn dân, vì hiện nay có rất nhiều hộ gia đình nghèo, khó khăn không đủ điều kiện mua hết BHYT cho tất cả các thành viên trong gia đình nhất là đối với những người lớn tuổi. Cử tri đề nghị đối với những người cao tuổi từ 60 đến 80 tuổi, cần cho phép được mua BHYT độc lập, không phụ thuộc vào việc bắt buộc phải mua cả hộ gia đình để tạo điều kiện thuận lợi trong việc khám chữa bệnh. Cử tri kiến nghị cần ứng dụng công nghệ thông tin trong sử dụng bảo hiểm y tế nhằm tăng tính hiệu quả, tiết kiệm thời gian khi khám bệnh.

Trả lời:

1. Đối với đề xuất mua thẻ bảo hiểm y tế cho toàn dân

Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế thì bảo hiểm y tế là hình thức bắt buộc được áp dụng đối với tất cả các đối tượng quy định trong Luật. Quy định này để bảo đảm nguyên tắc chia sẻ giữa người khỏe với người ốm ngay trong hộ gia đình, tránh tình trạng chỉ có người ốm mới tham gia bảo hiểm y tế. Trong điều kiện kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn thì việc nhà nước mua thẻ bảo hiểm y tế cho toàn dân là chưa thể thực hiện được.

2. Đối với hộ gia đình nghèo khó khăn

Theo quy định của Luật bảo hiểm y tế thì những đối tượng chính sách xã hội đã được nhà nước mua thẻ bảo hiểm y tế bao gồm: người nghèo, người dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng… được Nhà nước đóng (100%), người thuộc hộ gia đình cận nghèo được ngân sách nhà nước hỗ trợ 70% mức đóng. Vì vậy, mức đóng quy định như hiện nay là tương đối phù hợp, đảm bảo tương đối mức đóng so với mức hưởng, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm y tế và cân đối thu chi quỹ bảo hiểm y tế.

Ngày 10/06/2016 Thủ tướng Chính phủ ban hành Công văn số 1018/TTg-KGVX của Thủ tướng Chính phủ, về việc tăng cường phát triển, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế và tin học hóa công tác giám định, thanh toán chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Trong đó có nêu: Đẩy mạnh hơn nữa các hình thức tuyên truyền, vận động để người dân tích cực tham gia bảo hiểm y tế theo hình thức hộ gia đình, đảm bảo trong năm tài chính có 100% thành viên thuộc hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế để được giảm trừ mức đóng bảo hiểm y tếtheo quy định của Luật bảo hiểm y tế, phổ biến để người dân hiểu, đồng thuận và tích cực tham gia bảo hiểm y tế, thông báo việc thu hồi việc giảm trừ mức đóng nếu hết năm tài chính mà các thành viên của hộ gia đình đó vẫn không tham gia đầy đủ. Như vậy, các thành viên trong hộ gia đình có thể tham gia bảo hiểm y tế độc lập trong năm tài chính.

3. Đối với kiến nghị người từ 60 đến 80 tuổi được mua bảo hiểm y tế độc lập

Bộ Y tế xin tiếp thu ý kiến của cử tri và sẽ nghiên cứu khi tiến hành sửa đổi các quy định về bảo hiểm y tế.

4. Đối với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong sử dụng bảo hiểm y tế nhằm tăng tính hiệu quả, tiết kiệm thời gian khi khám bệnh.

Hiện nay, Bộ Y tế đang tích cực triển khai việc tin học hóa và ứng dụng công nghệ thông tin trong khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế nhằm tăng tính hiệu quả, tiết kiệm thời gian khi khám bệnh.

144. Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Cử tri bày tỏ thắc mắc xung quanh việc đăng ký và khám bảo hiểm y tế, mức chi trả của người sử dụng thẻ bảo hiểm y tế còn cao trong khi đó bị hạn chế chọn nơi khám hoặc điều trị vượt tuyến,… đề nghị Bộ Y tế xem xét, giải quyết (Vĩnh Long)

Trả lời:

Việc quy định mức chi trả các dịch vụ y tế khi đi khám chữa bệnh vượt tuyến, trái tuyến được quy định trong Luật bảo hiểm y tế. Đây là một trong các công cụ chính sách để quản lý, làm giảm tình trạng quá tải ở tuyến trên, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh tại tuyến cơ sở, bảo đảm việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế hợp lý.

Để bảo đảm quyền lợi cho người tham bảo hiểm y tế thì hiện nay, theo quy định của Điều 22 Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Bảo hiểm Y tế, người tham gia bảo hiểm y tế đã được tự do lựa chọn nơi khám chữa bệnh tại tuyến huyện trên toàn quốc và đến năm 2021 sẽ tiếp tục được tự do lựa chọn cơ sở khám chữa bệnh để đi khám chữa bệnh tại tuyến tỉnh trên toàn quốc.

145. Cử tri tỉnh Bình Dương kiến nghị: Cử tri đề nghị nên chú trọng vào chất lượng đào tạo ngành y, bảo đảm chất lượng đội ngũ y bác sĩ sau khi ra trường (Bình Dương).

Trả lời:

Để giải quyết vấn đề chất lượng nhân lực y tế, Bộ Y tế đã phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai các công việc sau:

- Hiện nay, Bộ Y tế đang chủ trì xây dựng Nghị định “về tổ chức đào tạo thực hành trong đào tạo khối ngành sức khỏe”, một nhân tố góp phần quyết định nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực y tế. Bản dự thảo đang được trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và phê duyệt.

- Làm việc với Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị cần xác định chỉ tiêu dựa trên năng lực chuyên môn hiện có, đặc biệt là số giảng viên chuyên ngành.

- Khuyến cáo Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố về việc sử dụng nhân lực y tế, đề xuất hạn chế dần và tiến tới không đào tạo bác sĩ hệ liên thông.

- Xây dựng Thông tư hướng dẫn đối với người đăng ký thực hành để cấp chứng chỉ hành nghề theo quy định của Luật khám bệnh, chữa bệnh. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, xác định lộ trình để đề nghị các cơ quan có thẩm quyền và Quốc hội xem xét, chỉnh sửa, bổ sung Luật khám bệnh, chữa bệnh trong đó có quy định về kỳ thi quốc gia để cấp chứng chỉ hành nghề theo thông lệ quốc tế.

- Xây dựng, chỉnh sửa, bổ sung Thông tư hướng dẫn về đào tạo sau đại học ngành Y tế.

- Triển khai áp dụng chuẩn năng lực Bác sĩ đa khoa, bác sĩ Răng hàm mặt, Điều dưỡng, Hộ sinh; triển khai xây dựng chuẩn năng lực cơ bản Bác sĩ Y học cổ truyền, Dược sĩ,...

- Xây dựng và phát triển mạng lưới đào tạo liên tục nhân lực y tế. Qui định số giờ đào tạo liên tục mà các cán bộ y tế phải đảm bảo để duy trì chứng chỉ hành nghề.

- Tăng cường quản lý chất lượng đào tạo liên tục thông qua kiểm định chất lượng và giám sát.

- Thực hiện việc đánh giá và phân loại các cơ sở đào tạo y dược dựa trên chất lượng đào tạo, chất lượng chuyên môn của người tốt nghiệp cơ sở đào tạo.

- Triển khai các hoạt động đổi mới đào tạo nhân lực y tế theo hướng đảm bảo chất lượng đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân và hội nhập quốc tế.

146. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri phản ánh, Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg ngày 11/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản là một giải pháp quan trọng về nguồn nhân lực nhằm hỗ trợ, động viên đội ngũ nhân viên y tế thôn, bản. Tuy nhiên, theo Quyết định này, nhân viên y tế tại các tổ dân phố thuộc các phường, thị trấn không được áp dụng là chưa công bằng. Đề nghị Bộ Y tế phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, bổ sung cho phù hợp, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của nhân dân về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe, hướng tới công bằng, hiệu quả (Bình Định).

Trả lời:

Năm 2009, Bộ Y tế đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản; mức hưởng 0,5% lương tối thiểu đối với nhân viên y tế thôn, bản tại các xã vùng khó khăn và mức 0,3% đối với các xã còn lại; chế độ phụ cấp này không áp dụng đối với nhân viên y tế tại các tổ dân phố thuộc các phường, thị trấn.

Việc thực hiện chế độ phụ cấp theo Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg đã động viên, khuyến khích nhân viên y tế thôn bản hoạt động, giúp duy trì ổn định đội ngũ và tăng cường khả năng thực hiện các chương trình y tế ở địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện chính sách nêu trên cũng gây ra tình trạng nhân viên y tế ở các tổ dân phố thuộc phường, thị trấn không tham gia hoạt động do địa phương tự cân đối, vận dụng chi trả và mức phụ cấp được hưởng chưa thỏa đáng với công sức của nhân viên y tế thôn, bản trong việc thực hiện các nhiệm vụ theo hướng dẫn tại Thông tư số 07/2013/TT-BYT ngày 08/3/2013 của Bộ Y tế quy định tiêu chuẩn, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên y tế thôn, bản.

Trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan đánh giá kết quả thực hiện Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ để xác định những mặt ưu điểm và hạn chế cũng như có các đề xuất với Chính phủ xem xét bổ sung, sửa đổi Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg, trong đó có chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế tại các tổ dân phố thuộc các phường, thị trấn và mức hưởng nói chung.

147. Cử tri tỉnh Bình Phước kiến nghị: Thời gian qua, tỉnh Bình Phước đã có một số chính sách nhằm thu hút bác sĩ về công tác tại địa phương, tuy nhiên hiện tại số lượng bác sĩ công tác tại các bệnh viện trên địa bản tỉnh Bình Phước còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân trên địa bản tỉnh. Cụ thể toàn tỉnh chỉ có 458 bác sĩ, trong đó tuyến tỉnh có 224 bác sĩ, tuyến huyện có 147 bác sĩ/11 huyện, thị xã, tuyến xã có 87 bác sĩ/111 xã, phường. Đề nghị quan tâm, xem xét quy định cho các tỉnh khó khăn, biên giới chỉ tiêu tuyển sinh bác sĩ chính quy hệ cử tuyển tại các trường đào tạo ngành y để tạo nguồn bác sĩ về công tác tại địa phương (Bình Phước).

Trả lời:

Nhu cầu bác sĩ và dược sĩ (đại học) được nhiều tỉnh, thành phố đề xuất với Bộ Y tế từ nhiều năm do vai trò quan trọng của họ trong hệ thống chăm sóc sức khỏe nhân dân. Để giải quyết tình trạng thiếu bác sỹ, từ năm 2000, chỉ tiêu tuyển bác sĩ, dược sĩ đại học đã được tăng lên dần và đạt đến mức tối đa so với năng lực đào tạo của các trường.

Theo số liệu báo cáo của các cơ sở đào tạo, năm 2015 và 2016, mỗi năm toàn quốc có khoảng 8.000 bác sĩ các loại ra trường. Năm 2015 toàn quốc có hơn 10.000 bác sĩ các loại nhập học, chỉ tiêu của 2016 tiếp tục là gần 11.000 bác sĩ.

Đối với dược sĩ đại học, năm 2015 có khoảng gần 3.000 dược sĩ ra trường, năm 2016 có gần 3.500 dược sĩ ra trường. Số lượng nhập học sinh viên dược đại học năm 2015 là hơn 8.000 sinh viên và là gần 9.000 ở năm 2016.

Qua số liệu trên có thể thấy, chỉ tiêu đào tạo bác sĩ, dược sĩ đại học hiện nay rất lớn. Số lượng bác sĩ, dược sĩ ra trường sẽ tiếp tục tăng đáng kể trong các năm tới và có thể cung cấp đủ bác sĩ, dược sĩ đại học cho hệ thống y tế.

Số chỉ tiêu hiện nay có thể nói đã ở mức tối đa so với năng lực của các cơ sở đào tạo. Việc tiếp tục tăng chỉ tiêu sẽ dẫn tới tình trạng chất lượng đào tạo tiếp tục giảm và chất lượng nhân lực y tế sẽ bị ảnh hưởng.

Trong thời gian qua, để hỗ trợ các tỉnh, thành thuộc các khu vực khó khăn, theo thẩm quyền được giao, Bộ Y tế đã có văn bản gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo ủng hộ bố trí chỉ tiêu đào tạo theo địa chỉ nhân lực y tế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đào tạo theo địa chỉ chỉ góp phần tăng số lượng và chưa tăng được chất lượng dịch vụ y tế. Đồng thời, ở nhiều địa phương, những người được gửi đi đào tạo theo hình thức địa chỉ sử dụng đã bỏ việc, xin về tuyến trên hoặc các vùng phát triển hơn, tạo ra sự bất bình đẳng trong tuyển sinh.

Bộ Y tế nhận thấy giải pháp đào tạo chỉ là một phần trong các giải pháp nhằm tăng số lượng bác sĩ, dược sĩ công tác tại mỗi địa phương. Để có thể tăng cường cả chất lượng và số lượng đội ngũ nhân lực y tế, các địa phương cần chú trọng các giải pháp, cơ chế về thu hút, tuyển dụng, đãi ngộ sử dụng.

148. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Cử tri phản ánh địa bàn miền núi việc đi lại của người dân gặp nhiều khó khăn, mức thu nhập của người dân thấp. Trong khi đó, hiện nay biên chế cho đội ngũ y tế xã quá ít, không đáp ứng yêu cầu hoạt động và chế độ phụ cấp cho cán bộ y tế thôn, bản quá thấp.

Đề nghị có các giải pháp để quan tâm hơn đến đội ngũ cán bộ y tế cơ sở, đặc biệt tại các địa bàn miền núi, các vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn (Nghệ An).

Trả lời:

Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ, ban ngành xây dựng, ban hành và trình Chính phủ ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện về chế độ, chính sách cho đội ngũ nhân viên y tế thôn bản làm cơ sở cho các địa phương áp dụng thực hiện như:

- Nghị định số 56/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011: Chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập với mức phụ cấp từ 20% đến 70 % mức lương hiện hưởng; Chế độ phụ cấp độc hại đối với công chức, viên chức ngành Y tế (hướng dẫn tại Công văn số 6608/BYT-TCCB ngày 22/8/2005);

- Nghị định số 64/2009/NĐ-CP quy định về chính sách đối với cán bộ, viên chức y tế công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và Thông tư liên tịch số 06/2010/TTLT-BYT-BNV-BTC ngày 22/3/2010 của liên Bộ Y tế, Nội vụ, Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 64/2009/NĐ-CP.

- Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg ngày 11/5/2009 về việc quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản.

- Quyết định số 73/2011/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 về việc quy định một số chế độ phụ cấp đặc thù đối với công chức, viên chức, người lao động trong các cơ sở y tế công lập và chế độ phụ cấp chống dịch.

- Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 quy định chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

- Đối với y tế xã/phường, quy định cán bộ Trạm Y tế xã, phường, thị trấn thuộc Trung tâm y tế tuyến huyện, viên chức của Trạm Y tế (trong đó có bác sỹ) là viên chức của Trung tâm y tế.

Năm 2016, Bộ Y tế đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2348/QĐ-TTg phê duyệt đề án xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong tình hình mới. Các nhiệm vụ và giải pháp thực hiện đề án bao gồm: (1) Củng cố, hoàn thiện tổ chức của mạng lưới y tế cơ sở; (2) Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của y tế cơ sở; (3) Tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; (4) Đổi mới cơ chế tài chính cho hoạt động của y tế cơ sở; (5) Tiếp tục đầu tư để hoàn thiện, nâng cao năng lực hệ thống y tế cơ sở.

Việc bố trí nhân lực cho các đơn vị y tế cơ sở thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân các cấp. Bộ Y tế rất mong nhận được sự phối hợp chặt chẽ của các địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để phát triển y tế cơ sở trong tình hình mới. Bên cạnh đó Bộ Y tế kiến nghị với các địa phương căn cứ trên điều kiện của địa phương mình có các chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ đối với cán bộ y tế công tác tại tuyến cơ sở.

149. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Cử tri đề nghị đào tạo, tăng cường nguồn nhân lực y, bác sĩ giỏi cho các bệnh viện tuyến tỉnh để giảm quá tải cho các bệnh viện trung ương (Quảng Bình).

Trả lời:

Bộ Y tế đã và đang xây dựng hệ thống đào tạo liên tục cán bộ y tế, tức là đào tạo cập nhật, bổ túc, nâng cao cho các nhân viên y tế trong hệ thống chăm sóc sức khỏe nhân dân, bao gồm cả các bác sỹ. Ngày 09/8/2013, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 22/2013/TT-BYT hướng dẫn về đào tạo liên tục trong lĩnh vực y  tế, trong đó quy định các bác sĩ và các nhân viên y tế khác phải học tập liên tục ít nhất 48 tiết học trong 2 năm liên tiếp, và lãnh đạo các cơ sở y tế phải tạo điều kiện cho cán bộ tham gia học tập, bản thân các cán bộ y tế phải chủ động học tập để phát triển nghề nghiệp.

Thời gian qua Bộ Y tế đã chú trọng triển khai nhiều giải pháp để tăng cường đào tạo, đào tạo lại cho nguồn nhân lực cho tuyến tỉnh cũng như tuyến huyện, xã nhằm phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, cụ thể:

Về Đào tạo nhân lực tại chỗ: Đối với các tỉnh còn khó khăn về nhân lực, đề nghị tiếp tục tăng cường công tác đào tạo cán bộ y-dược dưới nhiều loại hình đào tạo (chính quy, cử tuyển, liên thông, đào tạo theo địa chỉ) với quy mô hợp lý cho đối tượng là người địa phương, sau khi tốt nghiệp trở về công tác tại địa phương nhằm giúp các tỉnh tháo gỡ khó khăn về nhân lực. Giảm dần quy mô đào tạo cử tuyển khi đã có đủ cán bộ.

Về Đào tạo liên tục: Cán bộ y tế cơ sở đã được đào tạo, đào tạo lại, cập nhật kiến thức mới thông qua thông qua việc thực hiện hiệu quả các Đề án: Đề án Bệnh viện vệ tinh (Quyết định số 774/QĐ-BYT ngày 11/03/2013 ban hành Đề án bệnh viện vệ tinh giai đoạn 2013 – 2020); Đề án 1816 (ban hành kèm theo Quyết định số 1816/QĐ-BYT ngày 26/5/2008 về việc phê duyệt đề án “Cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh” và Quyết định số 5068/QĐ-BYT ngày 21/12/2012 về việc quy định một số nội dung triển khai thực hiện, đào tạo chuyển giao kỹ thuật theo gói dịch vụ y tế theo Đề án 1816 từ năm 2013; Quyết định số 14/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ luân phiên có thời hạn của người hành nghề tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

150. Cử tri TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri phản ảnh theo Theo Công văn số 2378/VPCP-KGVX ngày 08/4/2015 của Văn phòng Chính phủ về việc yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các cơ sở giáo dục và đào tạo thuộc phạm vi quản lý, tạm thời dừng tuyển viên chức chuyên trách công tác y tế, tài chính kế toán tại các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập. Qua chỉ đạo trên hiện nay công tác y tế của các trường đang gặp khó khăn về vấn đề nhân sự làm công tác chăm sóc sức khỏe học đường. Do vậy, một số trường thực hiện việc hợp đồng lại nhân viên nghỉ hưu tiếp tục làm công tác y tế hoặc một số trường tuyển mới nhưng mức thu nhập chỉ khoán ở mức từ 2.800.000 đồng đến 3.000.000 đồng/tháng, nên không an tâm công tác do mức thu nhập không đủ sống. Kiến nghị tăng chế độ chính sách để người làm công tác y tế học đường có mức lương ổn định để an tâm công tác, phục vụ ngành Y tế trường học.

Trả lời:

Việc bảo đảm chế độ chính sách cho nhân viên y tế trường học để có mức lương ổn định là rất cần thiết để nhân viên y tế trường học an tâm công tác, hoàn thành các nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe học sinh trong trường học. Việc tuyển dụng, quản lý và đề xuất các chế độ chính sách đối với nhân viên y tế trường học thuộc thẩm quyền của ngành Giáo dục.

Hiện nay, ngoài chế độ tiền lương theo quy định, tại khoản 6 Điều 3 của Nghị định số 56/2011/NĐ-CP ngày 07/4/2011 quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập đã quy định: Đối với công chức, viên chức không trực tiếp làm chuyên môn y tế; công chức, viên chức y tế làm công tác quản lý, phục vụ tại các đơn vị sự nghiệp y tế nói chung (trừ đối tượng quy định tại điểm b khoản 5 Điều này), viên chức làm công tác chuyên môn y tế tại cơ quan, đơn vị, trường học thì thủ trưởng đơn vị căn cứ vào đặc thù công việc và nguồn thu để xem xét, quyết định nhưng không vượt quá mức 20% so với mức lương ngạch, bậc hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có) của đối tượng được hưởng.

151. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị sớm có giải pháp tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong việc tuyển dụng viên chức chuyên trách công tác y tế tại các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập để thực hiện chăm sóc sức khỏe cho học sinh. Vì theo quy định của tại Khoản 1, Điều 18, Thông tư 41/2014/TTLT-BYT-BTC về hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế (BHYT) yêu cầu các trường học phải có ít nhất một cán bộ y tế và có phòng y tế thì mới được cấp kinh phí mua thuốc, trang thiết bị và dụng cụ y tế để khám, chữa bệnh cho học sinh.

Tuy nhiên, ngày 24/3/2015, theo Cổng thông tin Chính phủ, Thủ tướng vừa yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành trực thuộc chỉ đạo các cơ sở giáo dục đào tạo tạm thời dừng tuyển viên chức chuyên trách công tác y tế, tài chính kế toán tại các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập. Do vậy, công tác chăm sóc sức khỏe cho học sinh rất khó khăn, một số địa phương đã vận dụng ký hợp đồng với Trạm y tế xã, phường tại địa phương. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp tình thế, do có nhiều trường học ở các xã, y bác sĩ Trạm y tế xã không thể xử lý kịp thời các trường hợp cấp cứu cho học sinh. Hơn nữa, các trường đang phấn đấu để được công nhận đạt chuẩn quốc gia nên đa số đều có phòng y tế, nếu không có viên chức chuyên trách thì việc đầu tư này sẽ là lãng phí và không đảm bảo hiệu quả trong công tác giáo dục, chăm sóc sức khỏe học sinh (Tiền Giang).

Trả lời:

Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 13/2016/TTLT-BYT-BGDĐT ngày 12/5/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế và Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về công tác y tế trường học: Nhân viên y tế trường học phải có trình độ chuyên môn từ y sĩ trung cấp trở lên. Căn cứ điều kiện thực tiễn tại địa phương, các trường học bố trí nhân viên y tế trường học đáp ứng quy định tại Điểm này hoặc ký hợp đồng với Trạm Y tế xã, phường, thị trấn (sau đây gọi tắt là Trạm Y tế xã) hoặc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh từ hình thức phòng khám đa khoa trở lên để chăm sóc sức khỏe học sinh.

Việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý nhân viên y tế trường học thuộc ngành Giáo dục, ngành Y tế có nhiệm vụ phối hợp, hỗ trợ về chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên y tế trường học. Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm báo cáo Chính phủ về thực trạng và giải pháp tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong việc tuyển dụng nhân viên y tế trường học.

152. Cử tri tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Đà Nẵng, Đồng Tháp, Tiền Giang, Long An, TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Đề nghị cơ quan chức năng tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm mình, triệt hành vi vi phạm về an toàn vệ sinh thực phẩm; thông tin trên các phương tiện truyền thông cho nhân dân biết các tổ chức, cá nhân buôn bán thực phẩm bẩn; đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn người dân cách thức nhận biết, phân biệt khi chọn lựa các loại thực phẩm an toàn; đồng thời thường xuyên giám sát lực lượng thanh tra, kiểm tra thực thi pháp luật về an toàn thực phẩm, tránh biểu hiện tiêu cực trong thi hành công vụ.

Trả lời:

Công tác bảo đảm an toàn thực phẩm luôn được quan tâm của các cấp, các ngành, địa phương. Để tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm về an toàn thực phẩm, Bộ Y tế đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Quyết định số 38/2015/QĐ-TTg ngày 09/9/2015 về thí điểm thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm tại quận, huyện, thị xã và phường, xã, thị trấn của thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trong năm 2016 đã thực hiện thí điểm thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm tại quận, huyện, thị xã và phường, xã, thị trấn của thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, qua một năm thí điểm ghi nhận đã góp phần tăng hiệu lực quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, huy động nguồn lực cho công tác quản lý an toàn thực phẩm; đồng thời nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người sản xuất, kinh doanh, nhận được sự đồng tình ủng hộ của người dân. Qua công tác thanh tra, kiểm tra, đã kịp thời phát hiện xử lý các trường hợp vi phạm.

Hiện nay việc xử lý vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm được quy định cụ thể trong Luật xử lý vi phạm hành chính và các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính có liên quan; tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường và khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật. Với những hành vi vi phạm nghiêm trọng có thể bị phạt tiền bằng 7 lần giá trị hàng hóa vi phạm.

Trong năm 2016 Bộ Y tế đã xử phạt vi phạm hành chính mức phạt cao nhất từ trước tới nay (01 cơ sở mức phạt hơn 5,8 tỷ đồng và 01 cơ sở hơn 3,4 tỷ đồng); đồng thời, áp dụng các biện pháp xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả như: Đình chỉ sản xuất; thu hồi, tiêu hủy hàng hóa vi phạm; thu hồi giấy phép; công bố công khai trên phương tiện thông tin đại chúng theo Điều 72 của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc thực thi có nơi chưa nghiêm, còn nể nang, né tránh; có nơi năng lực người thực thi còn hạn chế, thiếu nhân lực, đặc biệt là ở cấp quận (huyện), xã (phường). 

Tiếp thu kiến nghị của cử tri, Bộ Y tế sẽ phối hợp các Bộ, ngành liên quan tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và chỉ đạo các địa phương tăng cường công tác bảo đảm an toàn thực phẩm tại địa bàn, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm để đảm bảo tính răn đe của pháp luật. 

Đối với kiến nghị giám sát lực lượng thanh tra, kiểm tra: Thực hiện theo Luật Cán bộ, Công chức và Luật Phòng, chống tham nhũng, các cán bộ, công chức ngành Y tế nói chung và lực lượng thanh tra, kiểm tra, thực thi pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm nói riêng đều phải nắm rõ các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, trên cơ sở đó tích cực đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao.

Trường hợp phát hiện cán bộ, công chức, thanh tra viên vi phạm các quy định của Luật Cán bộ Công chức, Luật Phòng chống tham nhũng, Bộ Y tế sẽ xử lý nghiêm theo các quy định của pháp luật.

153. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri bức xúc hiện nay trên các phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày vẫn còn phản ánh tình trạng vận chuyển thực phẩm mất vệ sinh an toàn thực phẩm, sản xuất, chế biến thực phẩm sử dụng phẩm màu, hóa chất có nguồn gốc từ Trung Quốc… gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng. Đề nghị ngành chức năng có giải pháp giải quyết hiệu quả, ngăn chặn tình trạng này để bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng (An Giang).

Trả lời:

Luật An toàn thực phẩm đã quy định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm phải chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm; thực phẩm phải được quản lý tất cả quá trình từ nuôi trồng, sơ chế, chế biến, vận chuyển, bảo quản, sản xuất, kinh doanh… tổ chức, cá nhân vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Trong thời gian qua, các đơn vị chức năng thuộc các Bộ, ngành và địa phương đã xử lý nhiều vụ vi phạm về an toàn thực phẩm, tuy còn tình trạng vi phạm về chất lượng nhưng tình hình cơ bản đã có chuyển biến tích cực.

Để giải quyết tình trạng sản xuất, kinh doanh thực phẩm không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, Bộ Y tế tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành chức năng nghiên cứu các giải pháp để tăng cường đảm bảo an toàn thực phẩm.

Hiện Bộ Y tế đang triển khai một số giải pháp: Phối hợp với các Bộ, ngành triển khai thí điểm thanh tra chuyên ngành tại thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh, trong thời gian tới sẽ tiếp tục thí điểm triển khai thanh tra chuyên ngành tại 07 tỉnh/thành phố khác; ngoài các đợt thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch, Bộ Y tế đã chỉ đạo địa phương tăng cường các đợt thanh tra, kiểm tra đột xuất để kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm về an toàn thực phẩm thực hiện theo Chỉ thị số 13/CT-TTg  ngày 09/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm và tăng cường vai trò trách nhiệm của người đứng đầu địa phương. 

154. Cử tri tỉnh Bến Tre kiến nghị: Hiện nay, thực phẩm bẩn là vấn đề bức xúc của người dân. Cử tri lo lắng về tình trạng sản xuất, chế biến, tiêu thụ thực phẩm chưa bảo đảm an toàn; việc sử dụng chất tạo nạc, phụ gia, hóa chất công nghiệp trong chết biến thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân. Cử tri đề nghị đẩy mạnh giải quyết vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, nhất là thời điểm gần Tết Nguyên đán (Bình Dương); và Câu 54. Hiện nay, tình trạng mất vệ sinh an toàn thực phẩm đang là nỗi lo lắng hàng đầu của người dân Việt Nam, hàng ngày người dân phải sử dụng nhiều loại thực phẩm không an toàn và hệ lụy của nó là số ca mặc bệnh ung thư ngày càng tăng. Cử tri đề nghị cần có “chiến dịch” bài trừ những thực phẩm mất an toàn để chất lượng cuộc sống của người dân được cải thiện, kéo dài tuổi thọ (Bến Tre).

Trả lời:

Vấn đề an toàn thực phẩm luôn là sự quan tâm hàng đầu của toàn xã hội và đã được Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm, chỉ đạo sát sao. Hiện nay Ban Chỉ đạo liên ngành Trung ương về vệ sinh an toàn thực phẩm là Ban Chỉ đạo liên ngành, do 01 đồng chí Phó Thủ tướng làm Trưởng Ban, trực tiếp chỉ đạo công tác đảm bảo an toàn thực phẩm trong phạm vi cả nước.

Năm 2016, Thủ tướng đã chủ trì Hội nghị trực tuyến với các Bộ, ngành và 63 tỉnh, thành phố Trực thuộc Trung ương về các giải pháp tăng cường bảo đảm an toàn thực phẩm, chỉ đạo các Bộ, ngành cơ quan tăng cường hơn nữa công tác quản lý Nhà nước về an toàn thực phẩm, tăng cường thanh kiểm tra và xử lý các vi phạm ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân.

Ngày 09/5/2016 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Chỉ thị số 13/CT-TTg về việc tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, trong đó yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương làm Trưởng Ban chỉ đạo liên ngành tỉnh/thành phố về vệ sinh an toàn thực phẩm.

Để nâng cao năng lực cho hệ thống quản lý an toàn thực phẩm, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 38/2015/QĐ-TTg ngày 09/9/2015 thí điểm thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm tại quận, huyện, thị xã và phường, xã, thị trấn của thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, qua hơn 01 năm thí điểm ghi nhận đã đạt được những kết quả quan trọng, Thủ tướng đã đồng ý kéo dài và mở rộng mô hình thí điểm đến tất cả các quận (huyện), xã (phường) của hai thành phố. Thủ tướng cũng đã trực tiếp kiểm tra công tác bảo đảm an toàn thực phẩm tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, làm việc với Lãnh đạo hai Thành phố lớn nhất, đầu tàu về kinh tế - xã hội và có những chỉ đạo thể hiện quyết liệt của Người đứng đầu Chính phủ trong công tác bảo đảm an toàn thực phẩm.

Trong dịp Tết Nguyên đán Đinh Dậu 2017, Ban Chỉ đạo liên ngành Trung ương vệ sinh an toàn thực phẩm đã kịp thời ban hành kế hoạch số 1244/KH-BCĐTƯVSATTP ngày 16/12/2016 về triển khai công tác bảo đảm an toàn thực phẩm tết Nguyên đán Đinh Dậu và mùa lễ hội xuân 2017 trên cả nước, đồng thời chỉ đạo các địa phương triển khai quyết liệt công tác thanh tra, kiểm tra an toàn thực phẩm; kiên quyết bài trừ thực phẩm không rõ nguồn gốc; thực phẩm, phụ gia thực phẩm kém chất lượng, trôi nổi ngoài thị trường.

155. Cử tri tỉnh Bế Tre kiến nghị: Việc cấp giấy chứng nhận về an toàn thực phẩm đối với tàu cá gây khó khăn cho chủ tàu cá vì phải đem tàu về đăng ký làm lỡ chuyến khai thác, chi phí đưa tàu ra vào, lệ phí mỗi đợt đăng ký cấp giấy chứng nhận là 1,5 triệu đồng tăng rất nhiều lần so với trước đây, vì phải tính phí thẩm định hồ sơ. Kiến nghị xem xét kéo dài thời gian có hiệu lực của giấy chứng nhận an toàn thực phẩm, để tạo điều kiện thuận lợi cho chủ tàu trong quá trình tham gia khai thác (Bến Tre).

Trả lời:

Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn là đơn vị quản lý và chứng nhận về an toàn thực phẩm đối với tàu cá. Điều này đã được quy định rõ tại Khoản 3, Điều 3, Mục 1 Chương X, Luật An toàn thực phẩm số 55/2010/QH12 ngày 17/6/2010 như sau: “Trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn: Quản lý an toàn thực phẩm trong suốt quá trình sản xuất, thu gom, giết mổ, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với ngũ cốc, thịt và các sản phẩm từ thịt, thủy sản và sản phẩm thủy sản, rau, củ, quả và sảnphẩm rau, củ, quả, trứng và các sản phẩm từ trứng, sữa tươi nguyên liệu, mật ong và các sản phẩm từ mật ong, thực phẩm biến đổi gen, muối và các nông sản thực phẩm khác theo quy định của Chính phủ”.

Bộ Y tế xin thông tin lại cử tri được biết và kiến nghị với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về những vấn đề liên quan.

156. Cử tri thành phố Đã Nẵng kiến nghị: Cử tri phản ánh, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm ở các trường mầm non vừa qua được quan tâm, tuy nhiên trình tự, thủ tục còn rườm rà, phức tạp. Đề nghị Bộ Y tế tiếp tục quan tâm chỉ đạo kiểm soát chặt chẽ vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm tại các trường mầm non nhưng cần phải đảm bảo tinh gọn về mặt trình tự, thủ tục (Đà Nẵng).

Trả lời:

1. Về trình tự, thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm của các bếp ăn tại trường mầm non

Thông tư số 30/2012/TT-BYTngày 05/12/2017 Quy định về điều kiện an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, kinh doanh thức ăn đường phố đã có các quy định về điều kiện đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, kinh doanh thức ăn đường phố, bao gồm các bếp ăn tập thể (trong đó có bếp ăn tại các trường mầm non). Các bếp ăn tập thể phải tuân thủ những yêu cầu này để bảo đảm an toàn thực phẩm.

Về trình tự thủ tuc, Thông tư số 47/2014/TT-BYT ngày 11/12/2014 về “Hướng dẫn quản lý an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống” đã quy đinh rõ:

a) Đối với những trường học được cung cấp suất ăn sẵn bởi các công ty kinh doanh dịch vụ ăn uống hoặc được các công ty ký hợp đồng với trường học để tổ chức nấu ăn phục vụ tại chỗ cho các trường học thì các công ty này phải tuân thủtrình tự thủ tục về xin cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm được quy định tại tại Điều 1, Điều 2 và Điều 3 Chương I Thông tư 47/2014/TT-BYT.

b) Đối với các bếp ăn tập thể do trường học tự tổ chức nấu ăn và phục vụ, theo quy định tại Khoản 3 Điều 7 Thông tư 47/2014/TT-BYT, thì những bếp ăn tập thể này chỉ phải ký cam kết bảo đảm an toàn thực phẩm, mà không phải tiến hành các thủ tục để cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm nữa.

2. Về các giải pháp đảm bảo an toàn thực phẩm tại trường mầm non

Theo quy định của Luật An toàn thực phẩm và Nghị định Số 38/2012/NĐ-CP ngày 25/4/2012 quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật An toàn thực phẩm thì trách nhiệm quản lý Nhà nước về an toàn thực phẩm tại các địa phương, (trong đó có các trường mầm non) thuộc thẩm quyền giải quyết Ủy ban nhân dân các cấp.

Với trách nhiệm quản lý Nhà nước về an toàn thực phẩm, Bộ Y tế đã triển khai các biện pháp nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm tại các bếp ăn tập thể, trong đó có các trường mầm non như sau:

- Tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 09/5/2016 về việc tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, trong đó yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương làm Trưởng Ban chỉ đạo liên ngành tỉnh/thành phố về vệ sinh an toàn thực phẩm.

- Triển khai và chỉ đạo các địa phương triển khai thực hiện Chỉ thị số 34/CT-TTg ngày 11/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo đảm an toàn thực phẩm và phòng chống ngộ độc thực phẩm trong tình hình mới.

- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư liên tịch số 08/2008/TTLT-BYT-BGDĐT ngày 08/7/2008 hướng dẫn công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm trong các cơ sở giáo dục.

- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Sở Giáo dục và Đào tạo tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về an toàn thực phẩm nói chung và đảm bảo an toàn thực phẩm tại các cơ sở giáo dục nói riêng.

- Chỉ đạo các địa phương tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát giám sát đối với các bếp ăn tập thể, trong đó có bếp ăn tập thể tại các cơ sở giáo dục mầm non từ khâu lựa chọn thực phẩm, bảo quản, chế biến và sử dụng thực phẩm. Phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định về đảm bảo an toàn thực phẩm.

- Chỉ đạo Chi cục An toàn thực phẩm tăng cường phối hợp với ngành giáo dục các địa phương tập huấn, nâng cao nhận thức, kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ phụ trách bếp ăn tập thể, những người tham gia trực tiếp vào quá trình chế biến thực phẩm tại các trường học.

157. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế bổ sung quy định hướng dẫn về giới hạn các hóa chất, kháng sinh, phụ gia trong các loại thực phẩm (Hà Tĩnh).

Trả lời:

Để phục vụ công tác quản lý an toàn thực phẩm, theo phân công trách nhiệm tại Luật an toàn thực phẩm, Bộ Y tế đã ban hành tương đối đầy đủ các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và quy định về chỉ tiêu và mức giới hạn an toàn thực phẩm.

1. Các văn bản quản lý

   Bộ Y tế đã ban hành 05 văn bản quản lý về an toàn thực phẩm, cụ thể:

- Thông tư số 27/2012/TT-BYT ngày 30/11/2012 hướng dẫn quản lý phụ gia thực phẩm (quy định 400 phụ gia).

-Thông tư số 08/2015/TT-BYT ngày 11/5/2015, sửa đổi một số điều Thông tư 27, nội dung sửa đổi: Phụ lục 1 bổ sung 7 chất, Phụ lục 2 sửa đổi, bổ sung mức giới hạn và đối tượng thực phẩm.

- Thông tư số 50/2016/TT-BYT ngày 30/12/2016 quy định giới hạn tối đa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong thực phẩm (quy định 205 chất).

- Thông tư số 24/2013/TT-BYT, ngày 14/8/2013, Quy định mức giới hạn tối đa dư lượng thuốc thú y trong thực phẩm (quy định 59 chất). Thông tư đang được sửa đổi phù hợp với CODEX 2016.

   - Quyết định 46/2007/QĐ-BYT ngày 19/12/2007 quy định giới hạn tối đa ô nhiễm sinh học và hóa học trong thực phẩm.

2. Các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn thực phẩm

Bộ Y tế đã ban hành 54 Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia quy định yêu cầu kỹ thuật về an toàn thực phẩm bao gồm các nhóm: Vi chất dinh dưỡng bổ sung vào thực phẩm, phụ gia thực phẩm, sữa và các sản phẩm sữa, đồ uống có cồn, không cồn, giới hạn ô nhiễm vi sinh học và hóa học, thực phẩm bổ sung vi chất dinh dưỡng, nước đá, sản phẩm dinh dưỡng công thức, dụng cụ, vật liệu bao gói chứa đựng thực phẩm, hương Vani, chất hỗ trợ chế biến - dung môi. Trong đó 100% các quy chuẩn Việt Nam và quy định do Bộ Y tế xây dựng và ban hành đều hài hòa với quy định của Ủy ban Tiêu chuẩn hóa thực phẩm quốc tế CODEX, EU, Mỹ, Nhật Bản, Úc-New Zealand và các nước ASEAN.

Riêng Quy chuẩn Việt Nam về độc tố vi nấm được xây dựng theo tiêu chuẩn của EU, các quy định về phụ gia thực phẩm, dư lượng thuốc thú y, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kim loại nặng được xây dựng trên cơ sở phù hợp hoàn toàn với tiêu chuẩn CODEX.

Thực hiện quy định về hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng, rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ quy chuẩn kỹ thuật đã ban hành, theo quy định tại Điều 35 của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Bộ Y tế đã có kế hoạch sửa đổi, bổ sung các Quy chuẩn Việt Nam giai đoạn 2016-2018.

158. Cử tri tỉnh kiến nghị: Cử tri đề nghị xem xét thành lập một ngân hàng AND để dựa vào đó tìm lại danh tính, hài cốt cho các liệt sĩ vì hiện nay còn quá nhiều liệt sĩ vô danh, không tìm được quê quán, … và tránh được việc lợi dụng vấn đề này cho hoạt động mê tín dị đoan,… (Bình Dương).

Trả lời:

Bộ Y tế xin cảm ơn và xin ghi nhận ý kiến của cử tri về việc thành lập một ngân hàng ADN. Tuy nhiên, việc thành lập một ngân hàng ADN là theo Luật Doanh nghiệp, Bộ Y tế chỉ có chức năng thẩm định về mặt chuyên môn theo Luật khám bệnh, chữa bệnh.

159. Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: Đề nghị ngành chức năng nghiên cứu, nhập đủ số lượng vacxin Pentaxim dùng cho trẻ em và có chính sách hỗ trợ 50% giá thành để đa số trẻ em được sử dụng vacxin này (Hà Nội).

Trả lời:

Vắc xin Pentaxim do Công ty Sanofi Pasteur S.A Pháp sản xuất để phòng 5 bệnh (bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt, bệnh gây ra do Hib) có số đăng ký lưu hành tại Việt Nam.

Theo quy định tại Nghị định số 187/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 của Chính phủ về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế với nước ngoài thì vắc xin đã có số đăng ký được nhập khẩu theo nhu cầu, không bị hạn chế về số lượng, trị giá, không phải xin giấy phép nhập khẩu, không phải xác nhận đơn hàng nhập khẩu của Bộ Y tế. Tuy nhiên, cuối năm 2015, theo thông tin do nhà sản xuất cung cấp thì quy trình sản xuất thay đổi nên nguồn cung vắc xin này suy giảm trên toàn cầu. Do đó, số lượng vắc xin nhập khẩu về Việt Nam phục vụ nhu cầu tiêm chủng dịch vụ của người dân chậm so với kế hoạch. Bộ Y tế đã chủ động làm việc với nhà sản xuất và năm 2016, số lượng vắc xin Pentaxim nhập khẩu về đã theo đúng kế hoạch hàng năm. Cho đến nay, Bộ Y tế chưa nhận được thông tin về việc thiếu vắc xin cục bộ cho nhu cầu tiêm chủng dịch vụ.

Ngoài ra, tất cả trẻ em trong độ tuổi tiêm chủng trên toàn quốc đều được tiêm miễn phí vắc xin Quinvaxem phòng 5 bệnh (bạch hầu, ho gà, uốn ván, viêm gan B, bệnh gây ra do Hib) trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng Quốc gia. Từ năm 2010 đến nay, trung bình mỗi năm có 1,7 triệu trẻ được tiêm phòng đủ 3 mũi vắc xin Quinvaxem. Chính phủ đã phê duyệt tiếp tục cung cấp miễn phí vắc xin phòng 5 bệnh phối hợp cho trẻ trong giai đoạn 2015 – 2020.

Đối với kiến nghị trợ giá vắc xin Pentaxim, đây là vắc xin được cung cấp trong tiêm chủng dịch vụ, do vậy không nhận được sự hỗ trợ về giá.

160. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế nghiên cứu, xây dựng đề án đánh giá, sàng lọc đối với trẻ từ độ tuổi mầm non để phát hiện sớm những trẻ em bị mắc dị tật, tự kỷ,… (Hải Phòng).

Trả lời:

Khuyết tật ở trẻ em (trong đó có bệnh tự kỷ) trong những năm gần đây có xu hướng gia tăng và đã trở thành mối quan tâm của ngành Y tế và của toàn xã hội. Phát hiện sớm khuyết tật ở trẻ em nói chung đang là vấn đề cần quan tâm của Việt Nam và nhiều nước trên thế giới.

Chính phủ đã có các Đề án hỗ trợ người khuyết tật, Bộ Y tế đã triển khai chương trình phát hiện sớm, can thiệp sớm trẻ em khuyết tật nói chung, được lồng ghép trong chương trình Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, chương trình này đã và đang được triển khai ở nhiều địa phương.

Riêng việc phát hiện sớm trẻ em tự kỷ, Bộ Y tế đang nghiên cứu, xây dựng và triển khai trong năm 2017 đối với Dự án Phát hiện sớm- can thiệp sớm trẻ em tự kỷ giai đoạn 2017 - 2020.

161. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Để thực hiện nhiệm vụ của Viện đầu ngành về Y học biển của quốc gia và mang tầm vóc khu vực, giúp chuyên ngành y học biển tại Việt Nam phát triển nhanh, sánh ngang với ngành Y học biển các quốc gia tiên tiến trong tương lai. Cử tri đề nghị quan tâm, ưu tiên đầu tư phát triển Viện Y học biển Việt Nam trở thành trung tâm chuyên sâu về lĩnh vực Y học biển (Hải Phòng).

Trả lời:

Bộ Y tế luôn xác định Viện Y học Biển phải đóng vai trò “lá cờ đầu” trong việc tham mưu cho lãnh đạo Bộ Y tế về phát triển hệ thống y tế biển đảo. Là đơn vị nghiên cứu chuyên sâu các bệnh lý có liên quan đến biển, đảo. Kết hợp với Học Viện Quân y, Trường Đại học Y Hải phòng để tham mưu với lãnh đạo Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Quốc phòng trong việc tổ chức đào tạo nguồn nhân lực (các trình độ) phục vụ hệ thống y tế biển, đảo và lao động trong các ngành kinh tế biển và phát triển 2 khoa đào tạo Y học Biển tại trường Đại học Y Dược Huế, trường đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh (theo Đề án Phát triển Y tế biển đảo đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 317/QĐ-TTg ngày 07/02/2013).

Để Viện Y học biển xứng đáng là một Viện chuyên ngành về Y học biển Quốc gia, tương lai ngang tầm khu vực và thế giới, lãnh đạo Bộ Y tế đã quan tâm chỉ đạo:

- Cho phép Viện mở rộng hợp tác quốc tế trong đào tạo, nghiên cứu khoa học, trao đổi chuyên môn.

- Phê duyệt lại Điều lệ tổ chức, hoạt động, quy hoạch của Viện cho phù hợp với tình hình mới; đồng thời giao tự chủ một phần kinh phí để chủ động trong các hoạt động đào tạo, nghiên cứu, đầu tư theo qui định của Pháp luật.

- Đầu tư xây dựng cơ sở của Viện khang trang; mua sắm các trang thiết bị đặc thù như hệ thống các buồng oxy cao áp, hệ thống Telemedicine, hệ thống máy xét nghiệm hiện đại...để phục vụ cho chuyên môn.

Trong giai đoạn tiếp theo, căn cứ vào nguồn ngân sách đầu tư cho Bộ Y tế, ngân sách đầu tư thực hiện đề án 317 và các nguồn xã hội hóa và các nguồn ngân sách hợp pháp khác; Bộ Y tế sẽ tiếp tục đầu tư để Viện hoàn thành là một cơ sở nghiên cứu chuyên sâu về Y học biển trên toàn quốc và đủ khả năng hội nhập quốc tế.

162. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Hiện nay, nước ta có khoảng trên 1 triệu ngư dân làm việc trực tiếp trên tàu cá, trong đó có khoảng 350.000 người làm việc trên tàu đánh bắt cá xa bờ nhưng việc chăm sóc sức khỏe cho họ chưa được quan tâm đúng mức. Năm 2014, Viện Y học biển Việt Nam đã tham mưu Bộ Y tế phát động “Chương trình cùng ngư dân bám biển”, qua triển khai mới phát động và tặng tủ thuốc (do Viện nghiên cứu và sản xuất) cho gần 2.000 tàu và đào tạo về cấp cứu ban đầu trên biển, hướng dẫn sử sụng tủ thuốc và dụng cụ y tế cho khoảng 2.000 người là thuyền trưởng và chủ tàu (tổng chi phí để trang bị tủ thuốc cho 01 tàu là khoảng 2.000.000 đồng). Viện Y học biển Việt Nam đề nghị Bộ Y tế bố trí kinh phí triển khai Chương trình này trên phạm vi cả nước; hoặc cho phép sử dụng kinh phí khám chữa bệnh hàng năm từ thẻ bảo hiểm y tế đã cấp cho bà con ngư dân để trang bị tủ thuốc và dụng cụ y tế cho tàu đánh bắt xa bờ (khoảng 60 tỷ đồng trang bị cho 30.000 tàu đánh bắt xa bờ), vì ngư dân ngày đêm làm việc trên biển, không có thời gian đi khám bệnh để sử dụng đến thẻ bảo hiểm y tế được cấp.

Trả lời:

Việc trang bị cho tủ thuốc cho tàu cá; đặc biệt, là tàu cá đánh bắt xa bờ là cần thiết, góp phần củng cố niềm tin của ngư dân và các lực lượng đang công tác tại các khu vực biển, đảo. Bộ Y tế đã ban hành Kế hoạch số 475/KH-BYT ngày 23/5/2014 về việc Tổ chức Chương trình “Cùng ngư dân bám biển” và đã vận động cán bộ, công chức, viên chức ngành y tế quyên góp (thông qua Công đoàn ngành Y tế) mua tặng trên 2.000 tủ thuốc cho các nghiệp đoàn nghề cá đánh bắt xa bờ với trị giá khoảng 4 tỷ đồng.

Vì từ năm 2013 đến nay, Đề án 317 chưa được ngân sách đầu tư của trung ương hỗ trợ cho các địa phương, bộ ngành để thực hiện nhiệm vụ; nên Bộ Y tế không có cơ sở để bố trí ngân sách mua tủ thuốc trang bị cho các tàu cá đánh bắt xa bờ. Tuy nhiên, Bộ Y tế đã có nhiều văn bản đề nghị các địa phương chủ động bố trí ngân sách, vận động tài trợ…để giúp bà con ngư dân, kết quả nhiều địa phương đã triển khai được nội dung này.

Về lâu dài, Bộ Y tế đang phối hợp với Bảo hiểm Xã hội Việt Nam đưa nội dung này vào Nghị định sửa đổi một số điều của Nghị định 105/2014/NĐ-CP ngày 15/11/2014 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Bảo hiểm y tế trình Chính phủ; trong đó sử dụng nguồn bảo hiểm y tế khu vực biển, đảo để trang bị tủ thuốc tàu cá đáp ứng yêu cầu cấp cứu, điều trị bước đầu cho ngư dân và lực lượng làm việc trên khu vực biển, đảo.

163. Cử tri tỉnh Nghệ An  kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế phối hợp với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội nghiên cứu, bổ sung Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học được quy định tại Thông tư liên tịch số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 18/11/2013 hướng dẫn khám giám định bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học với người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ, vì trong thực tế có nhiều đối tượng đủ điều kiện nhưng do loại bệnh họ nhiễm phải không có trong danh mục nên không được hưởng chính sách này (Nghệ An); và Câu 69. Đề nghị Bộ Y tế nghiên cứu, bổ sung Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học được quy định tại Thông tư liên tịch số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 18/11/2013 hướng dẫn khám giám định bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học với người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ, vì trong thực tế có nhiều đối tượng đủ điều kiện nhưng do loại bệnh họ nhiễm phải không có trong danh mục nên không được hưởng chính sách này (Nghệ An).

Trả lời:

Ngày 25/02/2011, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký Quyết định số 539/QĐ-BYT về việc “Thành lập Hội đồng chuyên môn sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn chẩn đoán bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hoá học/dioxin”. Hội đồng bao gồm 26 thành viên, gồm nhiều nhà khoa học Y học, xã hội học và cả những cán bộ tham mưu xây dựng chính sách. Hội đồng chuyên môn có nhiệm vụ tư vấn cho Bộ trưởng Bộ Y tế việc sửa đổi, bổ sung danh mục bệnh, tật đã ban hành kèm theo Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20/02/2008 của Bộ Y tế ban hành Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin (Quyết định 09) và biên soạn tài liệu hướng dẫn chẩn đoán bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin ban hành kèm theo Quyết định 09.

Hội đồng chuyên môn đã căn cứ vào các tài liệu khoa học có liên quan ở trong nước và quốc tế đã được công bố để rà soát và xem xét cơ sở khoa học, sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin ban hành kèm theo Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20/02/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế.

Hội đồng đã đi đến kết luận: Hiện nay, chúng ta chưa có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn để bổ sung, sửa đổi Danh mục các bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin được ban hành tại Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20/02/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Do vậy, cho đến nay Danh mục bệnh tật ban hành kèm theo Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT chưa có gì thay đổi.

Chính vì vậy, Bộ Y tế và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã thống nhất đưa danh mục bệnh, tật này vào trong Thông tư liên tịch số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 18/11/2013 và nay được quy định tại Điều 7 Thông tư liên tịch số 20/2016/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 30/6/2016 hướng dẫn khám giám định bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học đối với người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ (Thông tư này thay thế cho Thông tư số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH nêu trên).

Bộ Y tế tiếp tục giao cho Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế tiếp tục nghiên cứu, khi có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn, sẽ báo cáo Bộ trưởng Bộ Y tế để xem xét sửa đổi, bổ sung Danh mục các bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin.

Ngày 29/6/2016, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký Quyết định số 3201/QĐ-BYT thay thế Quyết định số 1488/QĐ-BYT ngày 04/5/2012 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc phê duyệt tài liệu chuyên môn “Hướng dẫn chẩn đoán bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin”. Hiện nay Bộ Y tế đã cho in để phát cho các Hội đồng giám định y khoa trong nước để sử dụng trong công tác giám định.

164. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Tư pháp xem xét ban hành Quy chế phối hợp giữa Trung tâm pháp y cấp tỉnh với Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh và các cơ quan liên quan trong việc tiếp nhận và thực hiện trưng cầu giám định pháp y theo Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp (Quảng Ngãi).

Trả lời:

Hiện nay Bộ Y tế đang phối hợp với Bộ Công an để xây dựng Quy chế phối hợp giữa Trung tâm pháp y cấp tỉnh với Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh và các cơ quan liên quan trong việc tiếp nhận và thực hiện trưng cầu giám định pháp y.

165. Cử tri tỉnh Thanh Hóa kiến nghị: Theo Điều 2, Thông tư liên tịch số 41/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 18/11/2013 quy định đối với những đối tượng mắc bệnh ung thư phải có bản tóm tắt bệnh án, những các bệnh viện tuyến trung ương không có mẫu tóm tắt bệnh án mà chỉ cấp trích sao bản án, vì vậy, khi chuyển hồ sơ giới thiệu đến Hội đồng giám định y khoa để giám định thì không được tiếp nhận. Đề nghị có quy định thống nhất về hồ sơ giám định (Thanh Hóa).

Trả lời:

Thông tư liên tịch số 20/2016/TTLT-BYT-BLĐTBXH (TTLT số 20) ngày 30/6/2016 của liên Bộ Y tế và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội hướng dẫn khám giám định bệnh, tật, di dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học đã thay thế Thông tư liên tịch số 41/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 18/11/2013. Tại Phụ lục 4 và 5 của Thông tư số 20/2016/TTLT-BYT-BLĐTBXH này đã có mẫu tóm tắt Bệnh án điều trị Nội trú và Ngoại trú điều trị  bệnh, tật, di dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học.

166. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan sửa đổi, bổ sung Thông tư số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA ngày 09/7/2015 của Bộ Y tế, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Bộ Công an quy định thẩm quyền, thủ tục và quy trình xác định tình trạng nghiện ma túy, nhằm hướng dẫn, tạo điều kiện cho các địa phương trong xác định tình trạng nghiện để quản lý, xử lý đối tượng nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh, góp phần giảm tội phạm trong tình hình hiện nay (Tiền Giang).

Trả lời:

Bộ Y tế trân trọng đề nghị cử tri nêu rõ các bất cập (nếu có) và các kiến nghị nội dung cụ thể cần sửa đổi trong Thông tư 17 nêu trên, để Bộ Y tế phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, xem xét điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế.

167. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Có ý kiến đề nghị xem xét cho phép thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên và lương khởi điểm phù hợp cho ngành Y tế (như trong ngành Giáo dục) (Long An).

Trả lời:

Ngày 18/10/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt khung trình độ Quốc gia, theo đó người tốt nghiệp bác sĩ, dược sĩ tương đương bậc 7 (trình độ thạc sĩ). Như vậy, khi thực hiện Quyết định này, những người tốt nghiệp bác sĩ, dược sĩ sẽ được hưởng chế độ như tốt nghiệp thạc sĩ các ngành khác. Việc thực hiện phụ cấp thâm niên nghề như ngành giáo dục, Bộ Y tế đã kiến nghị nhiều lần với Ban Chỉ đạo Trung ương về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; tuy nhiên, vẫn chưa có ý kiến phản hồi. Trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tiếp tục kiến nghị để thực hiện phụ cấp thâm niên nghề đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập theo tinh thần các Nghị quyết số 46/NQ-TW ngày 23/02/2005, Kết luận số 42 KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị và Kết luận số 118-KL/TW ngày 04/01/2016 của Ban Bí thư Trung ương Đảng.

168. Cử tri tỉnh Đắk Nông, Thái Nguyên, Quảng Ngãi kiến nghị: Về xác định người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học: Thông tư liên tịch số 20/2016/TTLT-BYT-BLĐTBXH (TTLT số 20) ngày 30/6/2016 của liên Bộ Y tế và Bộ LĐ-TB và XH Hướng dẫn khám giám định bệnh, tật, di dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học đối với nạười hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ, quy định: người hoạt động kháng chiến bị nhiêm chất độc hoá học do bị mắc bệnh thần kinh ngoại biên cấp tính hoặc bán cấp tính (quy định tại khoản 10, Điều 7) chỉ tiếp nhận hồ sơ khỉ có giấy tờ có giá trị pháp lý được xác lập trước ngày 30/4/1975 ghi  nhận bị mắc bệnh thuộc nhóm bệnh thần kinh ngoại biên. Việc quy định phải có giấy tờ có giá trị pháp lý là không phù hợp thực tiễn, gây khó khăn và phản ứng trong đối tượng, vì hầu hết đối tượng đã tham gia kháng chiến hiện nay họ không có hoặc còn lưu giữ loại giấy tờ này. Đồng thời, có nhiều người hoạt động kháng chiến cho rằng danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật liên quan đến phơi nhiễm chất độc hóa học quy định tại TTLT số 20 là chưa đầy đủ, người tham gia kháng chiến hiện nay còn bị mắc các bệnh ung thư, như: ung thư túi mật, vòm họng, máu, vú và ung thư dạ dày...

Để đảm bảo sự công bằng trong thực hiện chính sách đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học, không để gây bức xúc trong Nhân dân, đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế và các bộ, ngành liên quan cần nghiên cứu, xem xét xây dựng chính sách, quy định trên cơ sở: người nào đã trực tiếp tham gia chiến trường tại vùng Mỹ đã sử dụng chất độc hoá học trong chiến tranh ở Việt Nam, hiện nay bị mắc bệnh thì được giải quyết hưởng trợ cấp ưu đãi người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học..

Trả lời:

Theo các quy định hiện hành, việc xác định đối tượng, lập hồ sơ và giới thiệu đối tượng đến Hội đồng Giám định Y khoa để khám giám định thương tật, bệnh, tật, dị tật, dị dạng thuộc thẩm quyền của ngành Lao động – Thương binh và Xã hội. Ngành y tế chỉ tiếp nhận hồ sơ khám giám định y khoa và Ban hành Biên bản giám định y khoa khi nhận được đầy đủ hồ sơ của ngành Lao động – Thương binh và Xã hội chuyển đến.

 

 

Ban Dân nguyện

File download