37. Tòa án nhân dân tối cao

24/05/2017 16:21

1. Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Vì tính chất rất quan trọng uảt hoạt động người làm thẩm phán Tòa án nên việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại thẩm phán Tòa án nên cử tri đề nghị cần có quy định cụ thể, chặt chẽ và thực hiện nghiêm việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại thẩm phán.

Trả lời:  (Tại Công văn số 69/TANDTC-TCCB ngày 14 tháng 2 năm 2017)

Căn cứ Luật tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24/11/2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2015; Nghị quyết số 929/2015/UBTVQH13 ngày 14/5/2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quy định về trình tự, thủ tục và mẫu hồ sơ bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán (kèm theo Quyết định số 866/QĐ-TANDTC ngày 13/7/2016).

Việc thực hiện quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán trong các Tòa án nhân dân đã được thực hiện đúng theo quy định. Tất cả các trường hợp bổ nhiệm đều bảo đảm đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định, đáp ứng yêu cầu công tác; không có trường hợp khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc bổ nhiệm.

2. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị cần kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của các cơ quan tư pháp trong việc điều tra, truy tố, xét xử để tránh oan sai cũng như bỏ lọt tội phạm; xử lý nghiêm các hành vi sai phạm làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân.

Trả lời:  (Tại Công văn số 68/TANDTC-V1 ngày 10 tháng 2 năm 2017)

Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có Tòa án nhân dân chịu sự giám sát của các cơ quan dân cử (Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp). Trong những năm qua, thực hiện chức năng, quyền hạn của mình, Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Đại biểu hội đồng nhân dân đã thực hiện giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp thông qua việc giám sát chuyên đề, chất vấn, giám sát việc giải quyết giải quyết kiến nghị của cử tri và giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân….

Đặc biệt là, Quốc hội đã ban hành các Nghị quyết về công tác tư pháp như: Nghị quyết số 37/2012/QH13 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013; Nghị quyết số 63/2013/QH13 về các biện pháp tăng cường đấu tranh phòng, chống tội phạm; Nghị quyết số 69/2014/QH13 về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII; Nghị quyết 96/2015/QH13 về tăng cường các biện pháp phòng, chống oan, sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại trong tố tụng hình sự; Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và các năm tiếp theo.

Để nâng cao hơn nữa hoạt động giám sát, ngày 20-11-2015, Quốc hội đã thông qua Luật giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2016). Trong đó, quy định về hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân (trong đó có các cơ quan tư pháp) chịu sự giám sát, cơ quan, tổ chức và cá nhân khác có liên quan đến hoạt động giám sát; thẩm quyền của các cơ quan giám sát, trách nhiệm của các chủ thể giám sát; trách nhiệm và quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát; sự tham gia giám sát của cơ quan, tổ chức, cá nhân (Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan). Hoạt động giám sát của các cơ quan giám sát gồm: xem xét báo cáo công tác; xem xét văn bản quy phạm pháp luật; chất vấn và xem xét việc trả lời chất vấn của những người bị chất vấn; giám sát chuyên đề; xem xét báo cáo của Ủy ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định; lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm; xem xét báo cáo về kiến nghị giám sát; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri….

Đối với Tòa án nhân dân, thực hiện các Nghị quyết nêu trên của Quốc hội, trong những năm qua, với việc chủ động nắm bắt tình hình, đề ra nhiều giải pháp hữu hiệu và tổ chức thực hiện quyết liệt trong toàn hệ thống Tòa án, nên công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án tiếp tục có sự chuyển biến tích cực, chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án tiếp tục được bảo đảm; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán hàng năm đều giảm, đáp ứng được yêu cầu Nghị quyết số 111/2015/QH13 của Quốc hội đã đề ra. Về cơ bản, việc xét xử các vụ án hình sự bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; chưa phát hiện trường hợp nào xét xử trong năm 2016 kết án oan người không có tội; những vụ án oan, sai được phát hiện mới đây hầu hết được xét xử trong những năm trước và hiện đang được các cơ quan chức năng tiến hành điều tra, làm rõ trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình tiến hành tố tụng. 

Về vấn đề trách nhiệm của các cá nhân để xảy ra vụ án oan sai, quan điểm của lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao là phải xác định rõ trách nhiệm của các cá nhân để xảy ra oan, sai. Hành vi của người tiến hành tố tụng gây ra án oan, sai là do lỗi cố ý, có dấu hiệu của tội phạm (ví dụ, hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án dẫn đến việc kết án oan người không có tội, bỏ lọt tội phạm hoặc hành vi bức cung, dùng nhục hình), ngoài việc làm ảnh hưởng đến trật tự hoạt động tư pháp, còn xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân, tính mạng, danh dự nhân phẩm, công việc của người bị oan; đồng thời, còn ảnh hưởng tới gia đình, dòng tộc của họ, thì cần kiên quyết xử lý bằng biện pháp hình sự. Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp dẫn đến việc kết án oan người không có tội, quan điểm của lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao là phải xem xét xử lý nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật đối với hành vi sai phạm đó; áp dụng triệt để các nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự, đưa ra xét xử công khai; căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa để làm rõ các hành vi sai phạm của các bị cáo, để ra bản án nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

   Đối với trường hợp Thẩm phán xét xử oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm do lỗi chủ quan của Thẩm phán thì phải kiểm điểm nghiêm khắc, làm rõ trách nhiệm của Thẩm phán; trường hợp do thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc do năng lực yếu kém thì phải bị miễn nhiệm, cách chức hoặc không được bổ nhiệm lại chức danh Thẩm phán. Những Thẩm phán có bản án, quyết định bị huỷ hoặc sửa do sai lầm nghiêm trọng, cho bị cáo hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật thì phải bị kiểm điểm, đánh giá về năng lực, trình độ và tinh thần trách nhiệm, tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm để có biện pháp xử lý phù hợp.

Để tiếp tục nâng cao chất lượng công tác xét xử, không để xảy ra oan, sai, đồng thời, tránh bỏ lọt tội phạm, các giải pháp được lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án tập trung thực hiện trong thời gian tới là:

 - Tăng cường tranh tụng tại phiên tòa, bảo đảm để các bên thực hiện đúng quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của pháp luật, đặc biệt là nghĩa vụ chứng minh, xác định sự thật khách quan của vụ án, các vấn đề pháp lý tranh chấp cần giải quyết trong vụ án. Tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, cơ quan, tổ chức, người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của họ tiếp cận công lý, giao nộp tài liệu, chứng cứ, tiếp cận, nghiên cứu hồ sơ vụ án và tham gia các phiên tòa. Kết luận về vụ án phải phù hợp với tình tiết, sự kiện khách quan của vụ án. Phán quyết của Tòa án phải trên cơ sở pháp luật và các tình tiết, chứng cứ, lập luận đã được kiểm tra, xem xét, kết luận toàn diện, đầy đủ tại phiên tòa. Quá trình hỏi và tranh luận tại phiên tòa phải bảo đảm khách quan, minh bạch và công bằng, không được thiên vị và định kiến. Các vấn đề về tố tụng và nội dung của vụ án phải được xem xét toàn diện, đầy đủ, không được bỏ sót bất cứ vấn đề pháp lý hoặc tình tiết, chứng cứ nào có liên quan đến vụ án. Trường hợp tài liệu điều tra thể hiện bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội (trừ trường hợp phạm tội bị bắt quả tang), tại phiên tòa bị cáo kêu oan và giữa các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ với lời khai tại phiên tòa có mâu thuẫn với nhau nhưng không thể làm rõ và kết luận được tại phiên tòa thì Tòa án phải trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

- Cần tập trung làm tốt công tác đào tạo, đào tạo lại, tập huấn, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức. Theo đó, cần đa dạng hóa các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với từng loại đối tượng công chức và loại hình học tập; có chính sách khuyến khích, động viên, hỗ trợ cho cán bộ, công chức tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn theo chuyên, tập trung vào những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn xét xử và các quy định mới của pháp luật.

- Thường xuyên thực hiện việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng xét xử cho đội ngũ Hội thẩm nhân dân; phối hợp với cơ quan chức năng ban hành quy định về trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân và cơ quan, đơn vị nơi Hội thẩm công tác trong việc bố trí thời gian để Hội thẩm nhân dân tham gia công tác xét xử khi có yêu cầu của Tòa án.

- Nâng cao trình độ lý luận chính trị, tinh thần trách nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, công chức Tòa án các cấp, nhất là đội ngũ Thẩm phán.

- Chú trọng làm tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử, trên cơ sở đó tích cực tham gia hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là việc hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự, bảo đảm xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng. Khi đơn vị có các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan thì lãnh đạo Tòa án đó phải tiến hành rút kinh nghiệm đối với Hội đồng xét xử. Tăng cường công tác tổng kết và rút kinh nghiệm công tác xét xử; chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan trong công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Tiến hành lựa chọn các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao mang tính chuẩn mực về thống nhất áp dụng phát luật để phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra kỷ luật công vụ; xác định rõ trách nhiệm của cá nhân Thẩm phán và Hội đồng xét xử đối với những sai sót do lỗi chủ quan. Những trường hợp Thẩm phán xét xử oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm thì phải kiểm điểm nghiêm khắc, làm rõ trách nhiệm của Thẩm phán, trường hợp do thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc do năng lực yếu kém thì phải bị miễn nhiệm hoặc không được bổ nhiệm lại chức danh Thẩm phán. 

- Tăng cường công tác giám đốc việc xét xử của Toà án cấp trên đối với các Toà án cấp dưới, kịp thời phát hiện các sai sót để uốn nắn, rút kinh nghiệm trong từng đơn vị cũng như trong các cấp Tòa án. Những vụ án mà bị cáo kêu oan phải kịp thời xem xét một cách thận trọng, kỹ càng, toàn diện cả về chứng cứ buộc tội và gỡ tội, bảo đảm không để xảy ra oan, sai, nhưng cũng không để lọt tội phạm. Đối với các vụ án hình sự lớn, trọng điểm, được dư luận xã hội quan tâm; các vụ án về tham nhũng, các vụ án mà bị cáo bị kết án với mức hình phạt cao nhất từ 20 năm, tù chung thân, tử hình phải được Tòa án chủ động kiểm tra theo thủ tục giám đốc việc xét xử, không đợi đến khi có đơn đề nghị của đương sự thì mới xem xét.

- Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, kết hợp với thực hiện cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức của Toà án nhân dân”, gắn với phong trào thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” với phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”. Tiếp tục thực hiện việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình, khắc phục những tồn tại, khuyết điểm sau khi kiểm điểm tự phê bình của cán bộ, Đảng viên của Tòa án theo tinh thần Nghị quyết TW 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết số 04-NQ/TW (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.

3. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị: Cử tri đề nghị Nhà nước chỉ đạo giải quyết dứt điểm những vụ án oan sai đã được báo chí công khai. Làm rõ trách nhiệm của cơ quan, cá nhân khi tiến hành tố tụng để xảy ra oan sai, khi tiến hành bồi thường phải có trách nhiệm bồi thường về kinh tế theo đúng quy định của pháp luật.

Trả lời:  (Tại Công văn số 64/TANDTC-V1 ngày 10 tháng 2 năm 2017)

1.Về việc chỉ đạo giải quyết dứt điểm những vụ án oan sai đã được báo chí công khai

Trong những năm qua, số l­ượng các loại vụ việc mà các Toà án nhân dân phải thụ lý, giải quyết là rất lớn (trung bình mỗi năm là trên 400.000 vụ việc các loại và hàng năm tăng từ 8 - 10%), nhưng với sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Ban cán sự đảng và lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, bằng các giải pháp quyết liệt, mang tính đột phá, trong đó yêu cầu phải đẩy nhanh tiến độ giải quyết, xét xử và tăng cường tranh tụng tại phiên tòa, nâng cao chất lượng xét xử, giảm tỷ lệ án bị hủy, sửa do lỗi chủ quan, nên công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án của các Tòa án đã được nâng lên. Toà án các cấp đã triển khai sâu rộng việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên toà xét xử, bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của họ; bảo đảm cho các bên trình bày hết ý kiến của mình về những vấn đề liên quan tới việc giải quyết vụ án, các phán quyết của Toà án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà và trên cơ sở xem xét toàn diện, khách quan các chứng cứ của vụ án. Để tiếp tục nâng cao chất lượng tranh tụng, trong thời gian qua, Tòa án nhân dân các cấp đã phối hợp với Viện kiểm sát các cấp tổ chức nhiều “Phiên tòa rút kinh nghiệm”, thông qua việc tổ chức các phiên tòa này đã giúp các Thẩm phán, Kiểm sát viên tích lũy thêm kinh nghiệm thực tiễn, đảm bảo các phiên tòa đều được diễn ra khách quan và đúng quy định của pháp luật. Chính vì vậy, chất lượng xét xử, giải quyết các loại án tiếp tục được bảo đảm; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán hàng năm đều giảm và thấp hơn so với chỉ tiêu mà Nghị quyết số 111/2015/QH13 của Quốc hội đã đề ra.

Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn một số bản án, quyết định bị hủy, sửa; việc Tòa án cấp trên hủy, sửa bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới là căn cứ vào các quy định của pháp luật. Bên cạnh những tr­ường hợp bị huỷ, sửa do các nguyên nhân chủ quan như­: một số Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân ch­ưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, còn hạn chế về năng lực, trình độ, bản lĩnh nghề nghiệp; một số tr­ường hợp điều tra chư­a đầy đủ, nghiên cứu hồ sơ vụ án chư­a kỹ, đánh giá chứng cứ ch­ưa toàn diện, áp dụng pháp luật chư­a chính xác…, thì cũng có không ít tr­ường hợp việc huỷ, sửa là do các nguyên nhân khách quan theo quy định của pháp luật như: đối với các vụ án hình sự, tại cấp phúc thẩm ng­ười bị hại rút yêu cầu xử lý về hình sự đối với bị cáo (trong vụ án khởi tố theo yêu cầu của ng­ười bị hại) hoặc xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, ngư­ời bị hại rút yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại, bị cáo hoặc gia đình bị cáo khắc phục phần lớn hoặc toàn bộ thiệt hại, bị cáo thành khẩn khai báo, khai thêm đồng phạm, lập công chuộc tội... Trong xét xử, giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động...., Toà án phải bảo đảm quyền tự định đoạt, tự hoà giải của các đư­ơng sự ở bất cứ giai đoạn nào của tố tụng, trong đó có giai đoạn xét xử phúc thẩm nên có những trư­ờng hợp tại cấp phúc thẩm đư­ơng sự mới thay đổi yêu cầu, rút đơn khởi kiện, tự hoà giải, thoả thuận với nhau. Mặt khác, trong thực tiễn giải quyết các loại vụ án, do pháp luật không quy định thời hạn xuất trình chứng cứ nên nhiều tr­ường hợp tại Toà án cấp phúc thẩm, đ­ương sự mới xuất trình các tài liệu, chứng cứ mới làm thay đổi nội dung vụ án. Khi có những tình tiết khách quan nêu trên, tuỳ theo từng trường hợp, Toà án cấp phúc thẩm phải xem xét và có thể sửa hoặc huỷ bản án, quyết định sơ thẩm để giải quyết, xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, tuy đã có nhiều cố gắng đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án nhưng có một số vụ án hình sự rất phức tạp trong việc đánh giá chứng cứ và một số vụ án dân sự tranh chấp về nhà ở, đất đai … liên quan tới các quy định của pháp luật qua nhiều thời kỳ nên mặc dù đã qua nhiều cấp xét xử như­ng ch­ưa giải quyết dứt điểm, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. 

Lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao nhận thức sâu sắc là, mặc dù tỷ lệ các bản án, quyết định của Toà án bị huỷ, sửa là không nhiều, như­ng so với yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao đối với công tác tư pháp đòi hỏi các Tòa án nhân dân cần tiếp tục nỗ lực nhiều hơn nữa để nâng cao chất lượng giải quyết xử các loại vụ án. Đặc biệt, vẫn còn một số trường hợp xét xử oan ngư­ời không có tội (các trường hợp này được xét xử từ nhiều năm trước nhưng trong thời gian gần đây mới phát hiện bị oan và dư luận rất quan tâm) đã làm ảnh h­ưởng tới uy tín của Tòa án. Tòa án nhân dân tối cao đã tích cực phối hợp các cơ quan tư pháp Trung ương tiến hành xác minh và minh oan cho các trường hợp này, như: vụ ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang, vụ ông Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận, vụ ông Trần Văn Thêm ở Bắc Ninh hay vụ ông Hàn Đức Long ở Bắc Giang. Đồng thời, để tránh bỏ lọt tội phạm, trong quá trình giải quyết các đơn kêu oan, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến hành xác minh một cách kỹ lưỡng, thận trọng và kết luận là không có oan sai đối với một số vụ việc cụ thể, điển hình là vụ ông Trần Văn Vót ở Hà Nam. Với tinh thần tích cực, chủ động, công tâm, thẳng thắn nhìn nhận những sai sót để kịp thời khắc phục, sửa chữa trong quá trình xem xét, giải quyết các vụ việc oan sai trong thời gian qua đã tạo được sự đồng tình, ủng hộ và đánh giá cao của Quốc hội; đồng thời củng cố lòng tin của nhân dân đối với các hoạt động của Tòa án.

Trong thời gian qua, việc thực hiện bồi th­ường cho ngư­ời bị oan đ­ược thực hiện nghiêm túc trong các Toà án nhân dân. Thực hiện chỉ đạo của Toà án nhân dân tối cao, Toà án các cấp đã rà soát và tiến hành các thủ tục bồi thường cho ngư­ời bị oan theo đúng quy định của pháp luật. Căn cứ Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành, trình tự bồi th­ường cho ng­ười bị oan được thực hiện như sau:

- Sau khi nhận hồ sơ yêu cầu bồi thường cơ quan có trách nhiệm bồi th­ường phải kiểm tra tính hợp lệ của đơn và các giấy tờ kèm theo; trường hợp không đầy đủ thì hướng dẫn người bị thiệt hại bổ sung.

- Cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải tiến hành xác minh thiệt hại để làm căn cứ xác định mức bồi thường.

- Sau khi kết thúc việc xác minh thiệt hại, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải tổ chức và chủ trì thương lượng với người bị thiệt hại về việc giải quyết bồi thường.

- Trường hợp thương lượng thành, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải ra quyết định bồi thường. Quyết định bồi thường có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định, trừ trường hợp người bị thiệt hại không đồng ý.

- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn ra quyết định giải quyết bồi thường mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định hoặc kể từ ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định nhưng không đồng ý thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết bồi thường. Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Tòa án được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Năm 2016, các Tòa án đã thụ lý 08 yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm của Tòa án; đã giải quyết dứt điểm được 02 vụ. Việc thương lượng về mức bồi thường, tổ chức xin lỗi công khai người được bồi thường được thực hiện nghiêm túc theo quy định; sau khi có quyết định bồi thường, các Tòa án đã khẩn trương hoàn tất thủ tục để chi trả tiền bồi thường cho đương sự. Các Tòa án cũng đã thụ lý 32 vụ án dân sự mà người bị oan sai khởi kiện các cơ quan nhà nước yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (21 vụ yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự, 07 vụ yêu cầu bồi thường thuộc lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước; 03 vụ yêu cầu bồi thường trong thi hành án dân sự; 01 vụ yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hành chính); đã giải quyết được 22 vụ, còn lại 10 vụ đang trong quá trình xem xét, giải quyết.

Tuy nhiên, thực tế giải quyết việc bồi thường cho người bị oan theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, đó là: phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (theo luật) không còn phù hợp, đồng bộ với các luật có liên quan được ban hành sau luật này. Theo đó, luật chưa cụ thể hóa được các quyền dân sự để bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp 2013; chưa dự liệu hết các khoản thiệt hại được bồi thường trong thực tế nên chưa quy định đầy đủ các khoản thiệt hại phải bồi thường. Một số thiệt hại được bồi thường chưa được lượng hóa, do đó thiếu căn cứ xác định mức bồi thường (ví dụ chi phí tính trên thu nhập tối thiểu của người dân được nhân với những ngày bị tù oan nhưng có những khoản rất lớn lại không thể định lượng được, dễ tạo ra sự tùy nghi, như: tổn hại về danh dự, sức khỏe, tinh thần...), gây khó khăn cho quá trình thương lượng, giải quyết bồi thường. Một số quy định chưa rõ ràng, tạo ra các cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật trong thực tiễn như việc xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường để yêu cầu bồi thường của cá nhân, tổ chức gặp khó khăn. Quy định về trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường không đầy đủ (không quy định việc hoãn, đình chỉ giải quyết bồi thường), thiếu chặt chẽ, qua nhiều thủ tục hành chính, thời hạn giải quyết kéo dài... nên chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người bị thiệt hại cũng như cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Trình tự, thủ tục thẩm định, chi trả tiền bồi thường còn phức tạp, phải qua nhiều cấp có thẩm quyền xem xét nên đã làm chậm việc chi trả tiền bồi thường, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của người bị thiệt hại.

Để khắc phục các khó khăn, vướng mắc trên, hiện nay Quốc hội đã giao cho các cơ quan chức năng tiến hành nghiên cứu, trình Quốc hội sửa Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước.

2.Về việc làm rõ trách nhiệm của cơ quan, cá nhân khi tiến hành tố tụng để xảy ra oan sai, khi tiến hành bồi thường phải có trách nhiệm bồi thường về kinh tế theo đúng quy định của pháp luật.

Để khắc phục việc xét xử không đúng quy định của pháp luật dẫn đến tình trạng oan sai, gây thiệt hại về vật chất, tinh thần đối với cá nhân và tổ chức, Toà án nhân dân tối cao đã tích cực đề ra nhiều biện pháp, trong đó có việc xử lý nghiêm minh đối với những Thẩm phán xét xử oan, sai; Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã có chỉ thị yêu cầu các Tòa án tăng cường công tác kiểm điểm trách nhiệm và xử lý kỷ luật những Thẩm phán trong công tác xét xử có nhiều sai sót; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ để phát hiện kịp thời những sai sót của Thẩm phán, kiên quyết không bổ nhiệm lại những Thẩm phán có sai phạm nghiêm trọng trong xét xử, có tỉ lệ án bị huỷ cao; những trường hợp có dấu hiệu của tội phạm  chuyển cho cơ quan điều tra xử lý theo quy định của pháp luật.

 Về trách nhiệm của cán bộ, công chức Tòa án liên quan tới việc xét xử oan, sai, theo quy định của Tòa án nhân dân, những tr­ường hợp Thẩm phán xét xử oan ngư­ời không có tội thì phải kiểm điểm nghiêm khắc, làm rõ trách nhiệm của Thẩm phán, trư­ờng hợp do thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc do năng lực yếu kém thì phải bị miễn nhiệm, cách chức hoặc không đư­ợc bổ nhiệm lại chức danh Thẩm phán. Những Thẩm phán có bản án, quyết định bị huỷ hoặc sửa do sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật thì phải bị kiểm điểm, đánh giá về năng lực, trình độ và tinh thần trách nhiệm, tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm để có biện pháp xử lý phù hợp. Đồng thời, các cơ quan có thẩm quyền cũng xác định rõ trách nhiệm của người người thi hành công vụ có lỗi gây ra thiệt hại phải hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại.

4. Cử tri tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu kiến nghị: Cử tri cho rằng vụ án 02 thiếu niên cướp bánh mì tại quận Thủ Đức vừa qua bị xử phạt với mức án là quá nặng so với tội danh, trong khi nhiều vụ án tham nhũng, lãnh phí thất thoát hàng nghìn tỉ đồng thì chậm xử lý và với mức án không thuyết phục người dân. Đề nghị các cơ quan tố tụng cần xem xét những vấn đề này.

Trả lời:  (Tại Công văn số 70/TANDTC-V1 ngày  14 tháng 2 năm 2017)

- Thứ nhất, về việc xét xử 02 thiếu niên cướp bánh mì tại quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh:

Các bị cáo Ôn Thành Tân và Nguyễn Hoàng Tuấn bị Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh truy tố về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999 (các bị cáo có hành vi cướp giật tài sản là 02 bịch chuối sấy, 01 ổ bánh mì, 03 bịch me trộn đường,      01 bịch đậu phộng, có tổng giá trị là 45.000 đồng của bà Lại Thị Yên).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 325/2016/HSST ngày 20-7-2016, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh áp dụng khoản 1 Điều 136; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 69; khoản 1 Điều 74 Bộ luật hình sự xử phạt Ôn Thành Tân 08 tháng 20 ngày tù, Nguyễn Hoàng Tuấn 10 tháng tù, đều về tội “Cướp giật tài sản”.

Sau khi xét xử sơ thẩm, nhiều phương tiện thông tin đại chúng và dư luận xã hội không đồng tình với quyết định của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo.

Ngày 24-7-2016, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã chủ trì cuộc họp, nghe Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh báo cáo về vụ án Ôn Thành Tân và Nguyễn Hoàng Tuấn bị Tòa án nhân dân quận     Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh kết án về tội “Cướp giật tài sản” tại bản án hình sự sơ thẩm số 325/2016/HSST ngày 20-7-2016. Sau khi nghe Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh báo cáo về nội dung vụ án và quá trình giải quyết vụ án,    Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:

Trong vụ án này, các bị cáo Ôn Thành Tân và Nguyễn Hoàng Tuấn có hành vi cướp giật tài sản. Tuy nhiên, khi phạm tội các bị cáo đều là người chưa thành niên, phạm tội do đói bụng nhưng không có tiền và không có dự mưu từ trước; tài sản bị chiếm đoạt có giá trị 45.000 đồng là không lớn và đã được thu hồi, trả lại cho người bị hại; sau khi phạm tội, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; về nhân thân, các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

Theo quy định tại Điều 69 Bộ luật hình sự (nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội) thì:

“1. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích trong xã hội.

Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.

2. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giám nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.

3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.

4. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này.”.

Căn cứ vào quy định nêu trên, việc Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam đối với các bị cáo Ôn Thành Tân và Nguyễn Hoàng Tuấn là không cần thiết. Khi thụ lý vụ án, TAND quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh đã thay đổi biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là đúng quy định của Điều 69 Bộ luật hình sự. Trong vụ án này, bị cáo Tân là người rủ bị cáo Tuấn đi cướp giật tài sản và là người điều khiển xe chở Tuấn để Tuấn thực hiện hành vi giật tài sản, sau đó chở Tuấn tẩu thoát. Tuy nhiên, TAND quận Thủ Đức lại nhận định bị cáo Tuấn có nhân thân không tốt vì ngày 16-7-2015, bị cáo Tuấn có hành vi trộm cắp tài sản và hiện nay Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi truy tố tại Cáo trạng số 117/Ctr/VKS-HS ngày 05-5-2016 nên khi quyết định hình phạt thì mức án của bị cáo Tuấn phải cao hơn bị cáo Tân là đánh giá không đúng vai trò của các bị cáo trong vụ án; bị cáo Tuấn chưa bị xét xử về hành vi trộm cắp tài sản thì không bị coi là tình tiết về nhân thân của bị cáo. Việc Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Tân 08 tháng 20 ngày tù và bị cáo Tuấn 10 tháng tù là chưa đúng quy định tại Điều 69 Bộ luật hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, nhiều phương tiện thông tin đại chúng và dư luận xã hội không đồng tình với quyết định của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo.

Để bảo đảm việc giải quyết vụ án trên đúng quy định của pháp luật,    Chánh án Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu:

1. Giao TAND thành phố Hồ Chí Minh khẩn trương kiểm tra để xác định: Nếu có kháng cáo của các bị cáo, người đại diện hợp pháp của các bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo hoặc có kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đối với bản án sơ thẩm, thì TAND thành phố Hồ Chí Minh thụ lý vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Khi xét xử phúc thẩm vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần xem xét quyết định hình phạt cải tạo không giam giữ theo quy định tại các Điều 69, 70 Bộ luật hình sự hoặc áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường theo quy định tại các Điều 69, 70 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Ôn Thành Tân và Nguyễn Hoàng Tuấn.

2. Trường hợp không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giao Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh rút hồ sơ vụ án để kháng nghị bản án hình sự sơ thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm và đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án hình sự sơ thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo hướng quyết định hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường đối với các bị cáo như đã nêu trên.

3. Đối với Tòa án nhân dân các cấp, khi xét xử các vụ án hình sự, phải chấp hành nghiêm túc các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam đối với các bị cáo, đặc biệt là đối với bị cáo là người chưa thành niên. Các Tòa án không được ra bản án, quyết định có nội dung chấp nhận sai sót nghiêm trọng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố trong các vụ án hình sự.

Ngày 26 tháng 7 năm 2016, người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng Tuấn có đơn kháng cáo, đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo Tuấn.   Ngày 29 tháng 7 năm 2016, người đại diện hợp pháp của bị cáo Ôn Thành Tân có đơn kháng cáo, đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo Tân.

Ngày 01 tháng 8 năm 2016, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân        Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định kháng nghị số 56/QĐ-VKS-P7,        kháng nghị một phần bản án sơ thẩm về phần hình phạt, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo Ôn Thành Tân và Nguyễn Hoàng Tuấn.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 561/2016/HSPT ngày 15-9-2016, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Sửa một phần bản án sơ thẩm.     Áp dụng khoản 1 Điều 136; các điểm h, g, p, s, khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 69 Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009); miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo Ôn Thành Tân. Áp dụng khoản 1 điều 136; các điểm h, g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 69 Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009); miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo Nguyễn Hoàng Tuấn.

- Thứ hai, về việc xét xử các vụ án tham nhũng:

1. Về nội dung các vụ án về tham nhũng lớn là một nguy cơ, đã ảnh hưởng xấu đến nên kinh tế, nhất là trong nhân dân rât bức xúc, nhưng xử lý còn chậm

Yêu cầu đẩy nhanh tiến độ giải quyết, xét xử các loại vụ án, bảo đảm giải quyết các vụ án trong thời hạn theo quy định của pháp luật là một nhiệm vụ quan trọng đã ðýợc ðề cập trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Ban cán sự Ðảng và lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao khi chỉ đạo hoạt động của Tòa án các cấp trong thời gian qua. Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân tối cao còn ban hành nhiều công văn nhắc nhở, đôn đốc, thành lập các đoàn kiểm tra việc chậm đưa vụ án ra xét xử ở một số Tòa án địa phương. Riêng đối với các vụ án tham nhũng, quan điểm chỉ đạo của lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao là các Tòa án cần tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với các ngành Công an, Viện kiểm sát và các cơ quan chức năng khác để khẩn trương phát hiện, điều tra, kiên quyết đưa ra truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh các tội phạm về tham nhũng. Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án từ Viện kiểm sát cùng cấp chuyển sang phải phân công Thẩm phán làm chủ toạ phiên toà, khẩn trương nghiên cứu hồ sơ và bố trí lịch xét xử để sớm đưa vụ án ra xét xử kịp thời.

Quán triệt chỉ đạo của Tòa án nhân dân tối cao, nhìn chung các vụ án về tham nhũng đã được các Tòa án khẩn trương nghiên cứu hồ sơ để đưa ra xét xử, đáp ứng yêu cầu đấu tranh đối với loại tội phạm này trong tình hình hiện nay (năm 2014, các Tòa án đã xét xử sơ thẩm 192 vụ với 436 bị cáo về các tội tham nhũng). Trong quá trình xét xử các vụ án tham nhũng, các Tòa án tiếp tục chủ động phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng và Quy chế phối hợp số 01/QCPH/VPBCĐTW-TTCP-KTNN-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 15/01/2009 của Văn phòng Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng Trung ương, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước,      Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao,        nhằm bảo đảm giải quyết vụ án kịp thời, đúng quy định của pháp luật, đặc biệt là các vụ án tham nhũng lớn, trọng điểm được dư luận xã hội quan tâm; Tòa án nhân dân tối cao luôn quan tâm chỉ đạo, đôn đốc việc giải quyết, xét xử bảo đảm tiến độ giải quyết các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp thuộc diện     Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng theo dõi, chỉ đạo và     Ban Nội chính Trung ương theo dõi đôn đốc.

Tuy nhiên, các vụ án về tham nhũng là những vụ án rất phức tạp, có nhiều người tham gia và có sự cấu kết chặt chẽ với nhau, kẻ phạm tội thường là người có trình độ nên thủ đoạn phạm tội cũng rất tinh vi. Trong khi đó, nhận thức pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trong một số trường hợp còn có sự khác nhau khi đánh giá chứng cứ và xác định tội danh nên trong nhiều trường hợp,    các cơ quan tiến hành tố tụng địa phương thường phải có văn bản trao đổi nghiệp vụ với cơ quan tiến hành tố tụng cấp trên. Mặt khác, thực tiễn xét xử các tội phạm tham nhũng cho thấy, cũng xuất phát từ nhận thức pháp luật chưa thống nhất nên số lượng các trường hợp Tòa án phải trả hồ sơ để yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung đối với các vụ án này là khá nhiều. Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp vụ án tham nhũng có nhiều bị cáo bị đưa ra xét xử nhưng có bị cáo vắng mặt tại phiên tòa với lý do ốm, bị bệnh nên không thể tham dự phiên tòa; các Tòa án đã tiến hành xác minh và xét thấy lý do vắng mặt của bị cáo là chính đáng nên đã hoãn phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới việc kéo dài thời gian giải quyết vụ án, gây dư luận không tốt trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến niềm tin của quần chúng nhân dân về công tác chống tham nhũng.

Ngoài ra, quá trình giải quyết một số vụ án về tham nhũng bị kéo dài còn do khó khăn, vướng mắc trong công tác giám định và định giá tài sản, cụ thể như sau:

- Về công tác giám định: việc giám định một số vụ án tham nhũng thuộc các lĩnh vực tài chính, thuế, ngân hàng, xây dựng, đất đai… còn gặp nhiều khó khăn do nhu cầu giám định phục vụ công tác phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án thuộc lĩnh vực này ngày càng lớn. Việc cử người làm giám định của các cơ quan quản lý chuyên ngành thường không kịp thời, nhiều vụ việc kéo dài nhiều tháng, thậm chí hàng năm, làm chậm quá trình giải quyết vụ án. Trong một số vụ án tham nhũng, để xác định được thiệt hại về tài sản thì bắt buộc phải tiến hành trưng cầu giám định về tài chính kế toán, giám định kỹ thuật, giám định chất lượng công trình, vì kết luận giám định trong những trường hợp này là nguồn chứng cứ quan trọng chứng minh tội phạm và nhiều khi là nguồn chứng cứ duy nhất. Nội dung yêu cầu giám định trong các vụ án tham nhũng bao gồm nhiều vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau (tài chính, xây dựng, kỹ thuật chuyên ngành…) nên cần phải có sự điều phối, hợp tác của nhiều ngành khác nhau nhưng công tác phối hợp lại chưa tốt, chưa có cơ chế phối hợp; phải thuê mướn nhân công, thuê và vận chuyển máy móc, thiết bị chuyên dụng đến nơi giám định, nhưng do cơ quan trưng cầu không đủ kinh phí để tạm ứng, nên không bảo đảm yêu cầu về thời hạn giám định. Việc giám định trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đất đai… thường rất chậm, kéo dài do khó khăn trong việc lựa chọn phương pháp, cách thức tiến hành giám định, áp dụng các quy định về tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật của lĩnh vực chuyên môn cho việc thực hiện giám định hoặc nội dung yêu cầu giám định là nghiệp vụ chuyên môn mới phát sinh, rất phức tạp, khối lượng công việc lớn, vượt quá khả năng của một nhóm cá nhân hoặc của một tổ chức làm giám định, không đáp ứng được yêu cầu về thời hạn điều tra, nhiều vụ án phải tạm đình chỉ điều tra hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn, do chưa có kết luận giám định. Chất lượng của kết luận giám định trong một số trường hợp chưa bảo đảm, một số kết luận còn chung chung, mập mờ, không rõ ràng, không trả lời cụ thể câu hỏi của cơ quan trưng cầu đặt ra, mà nêu “chỉ có giá trị tham khảo”, không khẳng định rõ đúng sai khiến cho các cơ quan tiến hành tố tụng lúng túng, khó khăn trong việc đánh giá kết luận giám định trong quá trình tranh tụng. Người giám định trong nhiều trường hợp “né tránh” việc tham gia tố tụng để giải thích, trình bày kết quả giám định tại phiên tòa trong trường hợp cần thiết ở một số vụ án lớn, nhất là án tham nhũng. Bên cạnh đó,     là những khó khăn, vướng mắc trong việc đánh giá, sử dụng kết luận giám định. Thực tế cho thấy, nhiều cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng còn lúng túng trong việc xem xét, đánh giá sử dụng kết luận giám định trong vụ việc có nhiều bản giám định khác nhau

- Về định giá tài sản: một số trường hợp tài sản cần định giá bị thất lạc hoặc không còn tài sản và không có vật cùng loại, tương tự để so sánh, đối chiếu, nên việc giải quyết vụ án gặp khó khăn hoặc có tình trạng Hội đồng định giá tài sản (ở trung ương và địa phương) từ chối trực tiếp định giá, mà yêu cầu cơ quan điều tra thuê các công ty tư vấn định giá thẩm định giá tài sản theo cơ chế tài chính của doanh nghiệp, mọi chi phí đều được hạch toán vào giá thành nên chi phí định giá rất cao, dẫn đến thời hạn điều tra vụ án bị kéo dài, thậm chí phải tạm đình chỉ điều tra vụ án.

 2. Về nội dung các vụ án tham nhũng xử lý còn nhẹ, gây bức xúc trong nhân dân

Quan điểm chỉ đạo của lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao là xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật các vụ án hình sự nói chung, đặc biệt là các vụ án về tham nhũng lớn, vụ án nổi cộm, gây bức xúc trong nhân dân; trong đó cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với người chủ mưu, cầm đầu, người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt hoặc làm thất thoát số lượng lớn tài sản của Nhà nước. Việc xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo chỉ áp dụng đối với những bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đáng được khoan hồng đặc biệt, đúng với quy định của pháp luật, cũng như hướng dẫn của liên ngành tư pháp trung ương và Tòa án nhân dân tối cao.

Quán triệt quan điểm chỉ đạo của lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, trong thời gian qua, về cơ bản, các vụ án về tham nhũng được các Tòa án xét xử nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật, nhất là các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp. Các Tòa án đã áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo giữ vai trò chủ mưu, cầm đầu và thuộc các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt hoặc làm thất thoát số lượng lớn tài sản của Nhà nước, nhưng đồng thời cũng thực hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với những người phạm tội do bị rủ rê, lôi kéo, phạm tội với vai trò thứ yếu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bị cáo hoặc gia đình bị cáo đã khắc phục toàn bộ hậu quả, bản thân bị cáo hoặc gia đình có công với cách mạng. Trong số 436 bị cáo phạm tội về tham nhũng đã xét xử trong năm 2016, các Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt tử hình và tù chung thân đối với 05 bị cáo; xử phạt tù từ trên 15 năm đến 20 năm đối với 33 bị cáo; tù từ trên 7 năm đến 15 năm với 85 bị cáo; tù từ 3 năm đến 7 năm với 78 bị cáo; tù từ 3 năm trở xuống 165 bị cáo; xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo 45 bị cáo (chiếm 10,3%), còn lại là các hình phạt khác. Trong quá trình giải quyết vụ án, các Tòa án cũng chú ý áp dụng các biện pháp kê biên tài sản và các biện pháp tư pháp, các hình phạt bổ sung nhằm thu hồi tài sản của Nhà nước đã bị chiếm đoạt hoặc gây thiệt hại. Tòa án đã làm tốt chức năng yêu cầu khởi tố vụ án hoặc khởi tố thêm bị can khi phát hiện căn cứ cho rằng có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội hoặc người phạm tội, đồng thời khi phát hiện có sự buông lỏng, sơ hở trong công tác quản lý là nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, các Tòa án đã kiến nghị với các cơ quan có liên quan để khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý.

Về việc cho bị cáo được hưởng án treo, có thể thấy rằng từ năm 2013 việc xử phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo được giám sát rất chặt chẽ trong toàn hệ thống Tòa án, nhất là đối với các bị cáo phạm tội về tham nhũng,        chức vụ. Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức nhiều đoàn kiểm tra về nội dung này tại các Tòa án địa phương; các trường hợp phạm tội về tham nhũng được hưởng án treo đều phải gửi bản án cho Tòa án nhân dân tối cao để giám đốc việc xét xử và kiên quyết kháng nghị đối với những trường hợp cho hưởng án treo thiếu căn cứ. Các Thẩm phán có bản án cho hưởng án treo không đúng quy định phải kiểm điểm, giải trình, rút kinh nghiệm kịp thời. Năm 2013, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết hướng dẫn bổ sung chế định án treo, theo hướng quy định chặt chẽ, cụ thể hơn các điều kiện cho hưởng án treo, đặc biệt là đối với các bị cáo phạm tội về tham nhũng, chức vụ. Quán triệt đường lối xét xử nêu trên, các trường hợp phạm tội về tham nhũng được Tòa án cho hưởng án treo đã có xu hướng giảm dần và về cơ bản việc cho hưởng án treo là có căn cứ pháp luật.

Tuy nhiên, vẫn còn một thực tế là vẫn còn tồn tại một số trường hợp các Tòa án cho bị cáo hưởng án treo chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Điều này xuất phát từ thực tế là trong các vụ án tham nhũng thường có nhiều bị cáo; ngoài một số bị cáo chủ mưu, tham gia với vai trò tích cực, thì cũng có nhiều bị cáo tham gia với vai trò thứ yếu, nhất thời phạm tội hoặc bị rủ rê, lôi kéo; có nhiều tình tiết giảm nhẹ (bị cáo hoặc gia đình bị cáo đã khắc phục toàn bộ hậu quả; bản thân hoặc gia đình có công với cách mạng…). Mặt khác, Nghị quyết số 01/2007/HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao khi hướng dẫn về chế định “án treo” chỉ đề cập tố yếu tố pháp lý của chế định này, chưa có các hướng dẫn chặt chẽ, cụ thể việc cho hưởng án treo đối với các bị cáo phạm tội tham nhũng. Do đó khi xét xử, có những Thẩm phán mới chỉ chú trọng yếu tố pháp lý đơn thuần, chưa cân nhắc đầy đủ yêu cầu đấu tranh phòng, chống các tội phạm về tham nhũng trong tình hình hiện nay, nên khi bị cáo có đủ điều kiện theo quy định tại Nghị quyết 01/2007/HĐTP thì quyết định cho bị cáo hưởng án treo. Vấn đề này đã được lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao rút kinh nghiệm trong toàn ngành và Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06 tháng 11 năm 2013 hướng dẫn bổ sung chế định án treo, trong đó quy định chặt chẽ, cụ thể hơn các điều kiện cho hưởng án treo, đặc biệt là đối với các bị cáo phạm tội về tham nhũng, chức vụ. Không được áp dụng cho hưởng án treo đối với người chủ mưu, cầm đầu,    lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội hoặc người tuy bị Tòa án quyết định hình phạt dưới 03 năm tù nhưng phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

3. Các giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm, hiệu quả công tác xét xử các vụ án về tham nhũng nhằm đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh các vụ án về tham nhũng, góp phần vào công tác phòng, chống tham nhũng

Trong thời gian tới, Tòa án nhân dân tối cao sẽ tiếp tục chỉ đạo Tòa án các cấp thực hiện tốt một số giải pháp để đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh các vụ án về tham nhũng, cụ thể như sau:

- Trong công tác chỉ đạo điều hành, lãnh đạo các đơn vị cần tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ công tác của cán bộ, công chức; nắm chắc tình hình, kết quả thực hiện công tác xét xử hàng tháng để có kế hoạch, giải pháp đẩy nhanh tiến độ giải quyết, xét xử các loại vụ án; tiếp tục đổi mới các thủ tục hành chính tư pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết công việc, đặc biệt trong công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án; khẩn trương tổ chức rà soát, thống kê chính xác số lượng các vụ án quá hạn luật định để tập trung cán bộ giải quyết dứt điểm các vụ án này; rút kinh nghiệm và xử lý nghiêm các cán bộ,   Thẩm phán thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác dẫn đến để các vụ án quá thời hạn xét xử theo quy định của pháp luật, đặc biệt là các vụ án về tham nhũng. 

- Trong phạm vi thẩm quyền của mình, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh cần chú trọng và làm tốt công tác điều động, biệt phái cán bộ, Thẩm phán để tăng cường công tác xét xử cho các Tòa án nhân dân cấp huyện có số lượng án tăng đột biến, nhưng số lượng cán bộ, Thẩm phán chưa đủ đáp ứng yêu cầu giải quyết công việc.

Đặc biệt, đối với việc nâng cao trách nhiệm, hiệu quả công tác giải quyết các vụ án về tham nhũng, các giải pháp được xác định là:

- Tòa án nhân dân tối cao sẽ phối hợp với các cơ quan tư pháp trung ương tập trung làm tốt việc hướng dẫn áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật liên quan tới các tội phạm về tham nhũng, nhằm tháo gỡ những vướng mắc mà các cơ quan tư pháp địa phương đang gặp phải trong quá trình giải quyết các vụ án này, đặc biệt là các vướng mắc trong việc giám định, định giá tài sản trong các lĩnh vực tài chính, thuế, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, đất đai….

- Chỉ đạo các Tòa án địa phương tăng cường sự phối hợp với các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án; bố trí các Thẩm phán có kinh nghiệm, năng lực tham gia giải quyết, xét xử các vụ án về tham nhũng;    thực hiện nghiêm các quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự về hoãn phiên tòa và Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010 của liên ngành về hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

- Việc xử phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo phải bảo đảm các căn cứ quy định tại Điều 60 BLHS và hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc tinh thần chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại Chỉ thị số 01/2005/CT-CA ngày 30/8/2005 về công tác đấu tranh phòng, chống một số tội phạm hình sự trong tình hình hiện nay và Công văn số 134/TA-TKTH ngày 08/10/2010 về tăng cường kiểm tra việc xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

- Tăng cường công tác giám đốc, kiểm tra việc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới, kịp thời phát hiện và khắc phục ngay đối với các sai sót về chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình giải quyết vụ án, trong đó có việc cho hưởng án treo không đúng quy định của pháp. Đối với các vụ án về tham nhũng mà có bị cáo được hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ thì Tòa án đã xét xử phải gửi bản án về Tòa án nhân dân tối cao để giám đốc kiểm tra nhằm bảo đảm giám sát chặt chẽ công tác xét xử đối với loại tội phạm này.

-  Đối với các trường hợp cho các bị cáo phạm tội tham nhũng được hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật, thì sẽ phải kiểm điểm nghiêm túc, xác định rõ trách nhiệm, nếu do lỗi chủ quan của Thẩm phán thì sẽ có biện pháp xử lý nghiêm khắc.

5. Cử tri tỉnh Điện Biên kiến nghị: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, tuy nhiên khi áp dụng thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do thiếu các văn bản hướng dẫn. Đề nghị Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn chế định lẽ công bằng tại khoản 3, Điều 45 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Trả lời:  (Tại Công văn số  22 /TANDTC-PC&QLKH ngày 14 tháng 2 năm 2017)

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013). 

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, trong đó có quy định: Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng (khoản 2 Điều 4 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). Nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng được thực hiện theo quy định tại Điều 45 của Bộ luật tố tụng dân sự, cụ thể như sau:

Trước hết áp dụng tập quán nhưng “không được trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự”. Nếu không có tập quán, Thẩm phán áp dụng “tương tự pháp luật”. Nếu không thể áp dụng tập quán và tương tự pháp luật, Thẩm phán áp dụng “nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ và lẽ công bằng”.

Thẩm phán xác định nội dung “lẽ công bằng” theo quy định tại khoản 3 Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự: “Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó”.

Tòa án nhân dân tối cao nhận thấy, sẽ có những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành. Vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao sẽ tiếp tục nghiên cứu và hướng dẫn đối với những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn áp dụng.

6. Cử tri tỉnh Điện Biên kiến nghị: Đề nghị nghiên cứu quy định thang bảng lương, các chức danh của ngành Tòa án cho tương xứng với vai trò là cơ quan thực hiện quyền tư pháp đã được hiến định.

Trả lời:  (Tại Công văn số 65/TANDTC-TCCB ngày 10 tháng 2 năm 2017)

Căn cứ Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Nghị quyết số 81/2014/QH13 ngày 24/11/2014 của Quốc hội về thi hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao đã triển khai nghiên cứu, xây dựng chế độ tiền lương, phụ cấp mới đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Tòa án nhân dân, trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Ngày 13/6/2016, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1212/2016/UBTVQH13 sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 30/9/2004 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc phê chuẩn bảng lương chức vụ, bảng phụ cấp chức vụ đối với cán bộ lãnh đạo của Nhà nước; bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ ngành Tòa án, ngành kiểm sát; trong đó bổ sung phụ cấp chức vụ đối với một số chức danh lãnh đạo, quản lý của Tòa án nhân dân các cấp. Hiện nay, Ban Chỉ đạo Trung ương về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công đang hoàn thiện kế hoạch nghiên cứu và thực hiện chính sách tiền lương từ năm 2017 đến năm 2020. Sau khi ban hành kế hoạch, Tòa án nhân dân tối cao sẽ tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức Tòa án nhân dân, trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định. 

7. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị xem xét có hướng dẫn bổ sung quy định về biên chế, các chế độ phụ cấp liên quan đến các chức danh, như: Chánh tòa, Phó Chánh tòa, Chánh Văn phòng, Phó Chánh Văn phòng của Tòa án nhân dân cấp huyện để địa phương triển khai thực hiện Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

Trả lời:  (Tại Công văn số 67/TANDTC-TCCB ngày 10 tháng 2 năm 2017)

Thi hành quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 21/01/2016 quy định việc tổ chức các Tòa chuyên trách tại Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương. Hiện Tòa án nhân dân tối cao đang thẩm định các đề án thành lập  Tòa chuyên trách của các Tòa án nhân dân và phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan nghiên cứu, xây dựng văn bản hướng dẫn các Tòa án nhân dân địa phương về biên chế, phụ cấp chức vụ đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại Nghị quyết số 1212/2016/UBTVQH13 ngày 13/6/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 30/9/2004 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

8. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015, Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 7/5/2009 của Chính phủ về việc xác định “pháo các loại” và “sản phẩm thuốc lá” nhập lậu thuộc danh mục hàng hóa cấm kinh doanh, nhưng Luật Đầu tư năm 2014 quy định thuộc danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Đề nghị Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao có hướng dẫn thống nhất để thực hiện nội dung sau: Nghị định 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 sửa đổi Điều 25, Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013, cụ thể điều luật này quy định như sau: Đối với hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu số lượng từ 500 bao trở lên thì người có thẩm quyền đang thụ lý vụ việc, phải chuyển ngay hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự. Nhưng Công văn số 06/TANDTC-PC ngày 26/01/2016 Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người mua bán, vận chuyển tàng trữ trái phép pháo nổ, thuốc lá điếu nhập lậu, nội dung hướng dẫn như sau: Đối với hành vi vận chuyển, tàng trữ pháo nổ, thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa, để việc xét xử bảo đảm hợp hiến, hợp pháp; bảo đảm đúng người, đúng tội, Tòa án nhân dân tối cao sẽ phối hợp các cơ quan hữu quan đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải thích, làm rõ quy định của Luật đầu tư năm 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.

Trả lời:  (Tại Công văn số 20/TANDTC-PC&QLKH ngày 14 tháng 2 năm 2017)

Theo quy định tại Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12-06-2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 07-5-2009) thì pháo các loại và thuốc lá nhập lậu thuộc Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh, còn thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác thuộc Danh mục hàng hóa hạn chế kinh doanh.

Trong lĩnh vực hình sự, trước đây, việc xử lý các hành vi buôn bán vận chuyển, tàng trữ pháo nổ và thuốc lá điếu nhập lậu được áp dụng theo Thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 25-12-2008 hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép pháo nổ và thuốc pháo, Thông tư liên tịch số 36/2012/TTLT-BCT-BCA-BTP-BYT-VKSNDTC-TANDTC ngày 07-12-2012 hướng dẫn xử lý vi phạm về kinh doanh rượu nhập lậu, sản phẩm thuốc lá và nguyên liệu thuốc lá nhập lậu. Theo đó thì việc tàng trữ, vận chuyển từ 10 kg pháo nổ hoặc 1.500 bao thuốc lá nhập lậu trở lên (số lượng lớn) là đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Ngày 19-11-2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 124/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15-11-2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tại khoản 22 Điều 1 quy định: “Đối với hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu có số lượng từ 500 bao trở lên thì người có thẩm quyền đang thụ lý vụ việc phải chuyển ngay hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đ truy cứu trách nhiệm hình sự…”

Tuy nhiên, theo quy định Phụ lục 04 của Luật đầu tư năm 2014 (có hiệu lực thi hành ngày 01-7-2015) thì “pháo các loại” và “sản phẩm thuốc lá” thuộc Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện.

Từ những quy định không thống nhất của các văn bản pháp luật nêu trên nên các cơ quan tố tụng đang gặp vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án hình sự tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ và thuốc lá điếu có nguồn gốc nhập lậu.

Để tạm thời tháo gỡ vướng mắc này, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 06/TANDTC-PC ngày 26-01-2016 và Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 25-7-2016 để trao đổi nghiệp vụ với các Tòa án nhân dân. Đồng thời, tại Công văn số 07/TANDTC-PC ngày 11-02-2016 và Công văn số 122/TANDTC-PC ngày 06-5-2016, Tòa án nhân dân tối cao đã đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, giải thích các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan (như Luật đầu tư, Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành) làm cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án. Theo đề nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội về việc chuẩn bị hồ sơ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích luật, Tòa án nhân dân tối cao đã có Tờ trình số 174/TTr-TANDTC ngày 30-6-2016 (kèm theo dự thảo Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về giải thích luật).

Ngày 22-11-2016, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện của Luật đầu tư (sau đây viết tắt là Luật sửa đổi, bổ sung), trong đó bổ sung “Kinh doanh pháo nổ” vào Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh (Điều 6) và sửa đổi, bổ sung mục 3 Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, với nội dung “kinh doanh các loại pháo, trừ pháo nổ”. Luật sửa đổi, bổ sung này có hiệu lực kể từ ngày 01-01-2017 (trừ một số lĩnh vực).

Đối với thuốc lá điếu nhập lậu, trong quá trình soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung, có nhiều ý kiến cho rằng hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu có nguồn gốc nhập lậu cũng giống như hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán một số hàng hóa có nguồn gốc nhập lậu khác (như rượu, hàng điện tử), nên nếu chỉ bổ sung quy định thuốc lá điếu nhập lậu vào Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh thì không bảo đảm nguyên tắc công bằng trong việc xử lý các hành vi phạm pháp luật. Do đó, cơ quan chủ trì soạn thảo đã không bổ sung thuốc lá điếu nhập lậu vào Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh của Luật sửa đổi, bổ sung mà cho rằng nên áp dụng các biện pháp kinh tế, hành chính để xử lý các hành vi này (thay vì xử lý hình sự).

Để xử lý dứt điểm vướng mắc nêu trên, bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao sẽ tiếp tục đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích các quy định của luật có liên quan về pháo nổ và thuốc lá điếu nhập lậu để Tòa án các cấp có cơ sở giải quyết vụ án hoặc Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sẽ ban hành Nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật để giải quyết các vụ án tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ và thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa theo hướng áp dụng Luật đầu tư và Luật sửa đổi, bổ sung. Theo đó, kể từ ngày 01-7-2015 (ngày Luật đầu tư có hiệu lực thi hành) đến ngày 01-01-2017 (ngày Luật sửa đổi, bổ sung có hiệu lực thi hành), không xác định pháo nổ là hàng cấm và không xử lý hình sự về tội “Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm” đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ trong nội địa; kể từ ngày 01-7-2015, không xác định thuốc lá điếu nhập lậu là hàng cấm và không xử lý hình sự về tội “Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm” đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa.

9. Cử tri thành phố Hà Nội kiến nghị: Cử tri cho rằng để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đề nghị quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất, con người đối với các cơ quan tư pháp đặc biệt là hệ thống toà án nhân dân.

Trả lời:  (Tại Công văn số 66/TANDTC-TCCB ngày 10 tháng 2 năm 2017)

Căn cứ Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Tòa án nhân dân tối cao đã xây dựng Đề án “Trang bị phương tiện làm việc của Tòa án nhân dân các cấp”, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt giai đoạn II (2008-2013), giai đoạn III (2014-2018). Hiện nay, Tòa án nhân dân tối cao đang triển khai xây dựng Đề án giai đoạn IV (2019-2024) để bổ sung, thay thế số tài sản còn thiếu, đã hết thời gian sử dụng hoặc hư hỏng không còn sử dụng được; đồng thời triển khai lắp đặt hệ thống truyền hình trực tuyến, phấn đấu đến năm 2020 thực hiện Tòa án điện tử.

Trên cơ sở vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 được cấp là 2.632.3 tỷ đồng, Tòa án nhân tối cao đã phân bổ cho nhiều dự án, trước mắt ưu tiên cho các dự án quan trọng, cấp bách. Đối với việc đầu tư xây dựng trụ sở Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội, Văn phòng Chính phủ đã có Công văn đồng ý việc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội thực hiện đầu tư xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo trụ sở làm việc bằng 100% vốn ngân sách thành phố.

10. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Đề nghị sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện: Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính,… để luật nhanh chóng đi vào cuộc sống.

Trả lời:  (Tại Công văn số 21 /TANDTC-PC&QLKH ngày  14 tháng 2 năm 2017)

Ngày 25-11-2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 và Luật tố tụng hành chính số 93/2015/QH13, Bộ luật tố tụng dân sự và Luật tố tụng hành chính có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-7-2016.

Kể từ khi Bộ luật tố tụng dân sự và Luật tố tụng hành chính được ban hành, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với các cơ quan, Bộ, ngành có liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn, cụ thể như sau:

- Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính;

- Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP ngày 29-12-2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Luật tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương thức điện tử;

- Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13-01-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành các biểu mẫu văn bản áp dụng trong tố tụng dân sự tại Tòa án nhân dân;

- Nghị quyết số 02/2017/NQ-HĐTP ngày 13-01-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành các biểu mẫu văn bản áp dụng trong tố tụng hành chính tại Tòa án nhân dân;

- Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01-8-2016 của Bộ Tư pháp – Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự;

- Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC- TANDTC ngày 31-8-2016 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao quy định việc phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC- TANDTC ngày 31-8-2016 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao quy định việc phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao trong việc thi hành một số quy định của Luật tố tụng hành chính;

- Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 25-7-2016 của Tòa án nhân dân tối cao về một số vấn đề về hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự;

- Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự;

Ngoài ra, Tòa án nhân dân tối cao đã có các Công văn trao đổi nghiệp vụ về các vấn đề vướng mắc cụ thể đối với từng Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Trong thời gian tới, Tòa án nhân dân tối cao sẽ tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính và các Luật khác thuộc phạm vi hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao để bảo đảm thi hành đúng và thống nhất.

 

Ban Dân nguyện