ĐBQH LÊ THỊ YẾN - PHÚ THỌ: VIỆC MỞ RỘNG HÌNH THỨC TỐ CÁO CÓ THỂ DẪN ĐẾN NGUY CƠ LỘ, LỌT THÔNG TIN CÁ NHÂN VỀ NGƯỜI TỐ CÁO

28/05/2018

Sáng 24/5, Quốc hội thảo luận tại hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của Dự án Luật Tố Cáo (sửa đổi). Phát biểu tại phiên thảo luận, đại biểu Lê Thị Yến - Phú Thọ, cho rằng việc mở rộng hình thức tố cáo có thể dẫn đến nguy cơ lộ, lọt thông tin cá nhân về người tố cáo.

Đại biểu Lê Thị Yến phát biểu tại phiên họp

Đại biểu Lê Thị Yến bày tỏ sự đồng tình cao với phần lớn các nội dung của dự thảo luật và cơ bản nhất trí với báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tố cáo (sửa đổi) của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Để tiếp tục hoàn thiện dự thảo luật, đại biểu tham gia ba nội dung thảo luận cụ thể sau:

Một, về hình thức tố cáo, theo báo cáo giải trình, có hai loại ý kiến: Thứ nhất, nhiều ý kiến đề nghị mở rộng hình thức tố cáo qua bản fax, thư điện tử, điện thoại v.v...; Thứ hai, một số ý kiến đề nghị chỉ quy định hai hình thức tố cáo như luật hiện hành là tố cáo bằng đơn và tố cáo trực tiếp, hoặc chỉ nên bổ sung hình thức tố cáo qua bản fax, thư điện tử. Dự thảo luật đang được thể hiện theo loại ý kiến thứ nhất. Về vấn đề này, đại biểu cho rằng trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu và có những tác động đáng kể đến hành vi của cá nhân, tổ chức thì cần tính tới khả năng quy định về hình thức tố cáo cho phù hợp. Tuy nhiên, nếu thực hiện theo loại ý kiến thứ nhất, đại biểu đề nghị Quốc hội cần tiếp tục thảo luận và cân nhắc kỹ lưỡng vì ngoài một số lý do đã nêu trong báo cáo giải trình và ý kiến của các đại biểu đã phát biểu trước.

Toàn cảnh phiên làm việc sáng ngày 24/5

Lý giải về ý kiến trên, đại biểu Lê Thị Yến cho biết, mở rộng hình thức tố cáo qua bản fax, thư điện tử, điện thoại đòi hỏi mức độ tin học hóa hoạt động của các cơ quan nhà nước phải đạt đến một trình độ nhất định, theo đó mọi hoạt động cơ bản dựa trên nền tảng số với việc ứng dụng công nghệ thông tin ở cấp độ 3 và 3. Tuy nhiên, thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước của ta hiện nay còn chưa đáp ứng các yêu cầu đặt ra, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa hoặc vùng đồng bào dân tộc, miền núi. Đồng thời nếu đưa ra phương án mở rộng hình thức tố cáo thì cần phải đánh giá tác động bổ sung về tính khả thi và mức độ đáp ứng, đặc biệt là từ phía các cơ quan nhà nước.

Thêm vào đó, việc mở rộng hình thức tố cáo như đề xuất trong dự thảo luật thì cần được quy định một cách đồng bộ với việc đổi mới hình thức tiếp nhận, xử lý thông tin ban đầu, thụ lý, xác minh, kết luận, rút tố cáo, công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo. Nhìn chung phải có một quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo qua mạng thông tin điện tử hoặc trên môi trường số. Tuy nhiên, dự thảo luật chưa có phương án cụ thể để xử lý vấn đề này. Do vậy, việc thực hiện sẽ khó khả thi, hơn thế nếu không đổi mới về trình tự, thủ tục giải quyết cho phù hợp thì chưa phát huy được yếu tố tích cực, khi đề xuất mở rộng hình thức tố cáo.

Ngoài ra, việc mở rộng hình thức tố cáo có thể dẫn đến nguy cơ lộ, lọt thông tin cá nhân về người tố cáo. Trong khi đó dự thảo luật đang coi đây là thông tin được bảo vệ bí mật. Thực tế thời gian qua cho thấy việc bảo vệ bí mật thông tin cá nhân của người tố cáo gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù hiện nay chúng ta chỉ thực hiện với 2 hình thức tố cáo là tố cáo bằng đơn và tố cáo trực tiếp. Do vậy, nhìn từ góc độ bảo vệ bí mật thông tin cá nhân của người tố cáo thì cần cân nhắc thận trọng việc mở rộng hình thức tố cáo.

Hai, về quy định rút tố cáo, đại biểu đồng tình với lập luận đưa ra trong báo cáo giải trình và các quy định có liên quan trong dự thảo luật. Theo đó quy định rõ việc rút tố cáo có thể được thực hiện ở giai đoạn nào, bổ sung quy định về rút tố cáo phải đảm bảo những điều kiện chặt chẽ, như việc rút tố cáo không làm chấm dứt việc giải quyết của cơ quan có thẩm quyền trong những trường hợp có vi phạm pháp luật, không loại trừ trách nhiệm của người cố ý tố cáo sai. Khắc phục được tình trạng rút tố cáo do người tố cáo bị đe dọa, ép buộc, mua chuộc, đồng thời giao cho Chính phủ quy định chi tiết điều này để bảo đảm tính cụ thể, chặt chẽ, khả thi khi triển khai thi hành luật. Tuy nhiên, do đây là một vấn đề khá phức tạp trên thực tế nên đại biểu Lê Thị Yến đề nghị cần tiếp tục xem xét thêm một số tình huống cụ thể sau:

Tại khoản 1 Điều 33 quy định: Người tố cáo có quyền rút toàn bộ nội dung tố cáo hoặc một phần nội dung tố cáo. Tuy nhiên, dự thảo lại chưa đưa ra quy định về quá trình giải quyết khi người tố cáo rút một phần nội dung tố cáo nhưng người giải quyết tố cáo đưa ra nội dung rút ra khỏi nội dung xác minh, kết luận nội dung tố cáo. Đồng thời dự thảo cần quy định rõ trường hợp nội dung rút ra có liên quan đến hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì người giải quyết tố cáo có chấp nhận việc rút nội dung đó không.

Tại khoản 2 Điều 33 quy định về các trường hợp vẫn tiếp tục giải quyết khi người tố cáo rút tố cáo như xét thấy hành vi bị tố cáo có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc có căn cứ xác định việc rút tố cáo do bị đe dọa, ép buộc, mua chuộc. Như vậy, khi người tố cáo và người bị tố cáo chủ động thỏa thuận việc rút đơn, đại biểu Lê Thị Yến nhấn mạnh không bên nào ép buộc bên nào hay mua chuộc bên nào và chưa đến giai đoạn xác minh để có thể làm rõ được hành vi bị tố cáo có dấu hiệu vi phạm pháp luật hay không thì trường hợp này có thuộc vào khoản 2 Điều 33 hay không? Người giải quyết tố cáo có đồng ý việc rút đơn và ra quyết định đình chỉ giải quyết hay không?

Tại khoản 3 Điều 33 quy định về trách nhiệm của người tố cáo trong trường hợp rút tố cáo nhưng có căn cứ xác định họ lợi dụng việc tố cáo để vu khống, xúc phạm gây thiệt hại. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 34 của dự thảo thì đối với trường hợp này người giải quyết tố cáo sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra là: Nếu đình chỉ giải quyết tố cáo thì căn cứ vào đâu để cơ quan có thẩm quyền xử lý trách nhiệm của người tố cáo.

Mai Trang

Các bài viết khác